Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04. Bước đầu tiên

10/04/201511:57(Xem: 8386)
04. Bước đầu tiên

 

TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN 
TENZIN PALMO và CUỘC SUY TẦM CHÂN LÝ 
Nguyên tác : Cave in The Snow Tenzin Palmo and The Quest For Enlightenment 

Tác Giả: Vickie Mackenzie - Người Dịch: Thích Nữ Minh Tâm


CHƯƠNG BỐN  

BƯỚC ĐẦU TIÊN 

  
Tenzin không khóc khi chuyến xe lửa lăn bánh, bỏ lại sau lưng mẹ cô, quê hương cô, và cũng không biết bao giờ cô mới trở lại; còn hai người bạn gái của cô là Ruth Tarling và Christine Morris thì lệ rơi đầm đìa. Cả ba cô gái đều trực chỉ tới tu viện của bà Freda Bedi.  
  
 - "Tôi cũng không hiểu tại sao tôi không cảm thấy buồn gì khi xa gia đình, xa đất nước tôi như vậy. Tôi chỉ cảm thấy vô cùng sung sướng. Đây là giây phút tôi đã mong đợi từ bao năm qua."  
  
Con tàu "Le Vietnam" là con tàu cũ từ thực dân Pháp. Thủy thủ đoàn gồm có người xứ Ethiopie, Vịêt Nam, Sudan, và Algérie. Vì là tàu cũ nên gía vé đi Ấn Độ rất rẻ. Trên tàu chẳng có quầy rượu hay hồ bơi gì cả; chỉ có một dúm hành khách mà thôi. Chuyến đi mất hai tuần, dừng lại Barcelona, Port Said Aden, và Bombay trước khi dong buồm thẳng về hướng đông.  
  
Trên tàu, Tenzin quen với một thanh niên người Nhật. Chàng thanh niên này vừa thấy Tenzin đã choáng váng và yêu ngay người thiếu nữ duyên dáng, xinh đẹp này; và Tenzin cũng có cảm tình với anh chàng Phật tử người Á Đông này.  
  
Một đêm đẹp trời, Tenzin đang ngồi hóng mát trên boong thì anh ta tiến đến gần và ngỏ lời cầu hôn cô.  
  
Tenzin cười phá lên và cho anh ta đùa cợt. Nhưng không, anh ta có vẻ đứng đắn thật sự. 

- "Tôi không hề nghĩ tới chuyện bất ngờ đó cả. Nhưng tôi cảm thấy hơi phân vân nghĩ ngợi. Thực ra anh ta rất đẹp trai và nồng hậu vô cùng. Các bạn tôi đều nói, nếu tôi không lấy anh ta thì có lẽ không bao giờ tôi kiếm được một người chồng tử tế đáng yêu như vậy. Tuy nhiên, tôi đã cân nhắc thật kỹ trước khi quyết định. Đức Phật đã dạy "Đời là bể khổ" - một ngày nào đó, anh ta sẽ chán tôi, và cuộc sống gia đình thực tế cũng chẳng có gì hay ho thơ mộng cả. Tôi sẽ là một ni cô - Cuộc đời xuất gia mới đúng là cuộc đời của tôi."  
  
Tenzin ước hẹn với chàng thanh niên Nhật Bản là Tenzin sẽ ở lại Ấn một năm thử thách, và nếu cô không tu được, cô sẽ đi Nhật để gặp anh ta.  
  
Tenzin và hai người bạn gái đến Dalhousie, Bắc Ấn vào tháng 3.  
  
- "Khi tôi đến Dalhousie, tôi gặp cả ngàn vị tăng sĩ Tây Tạng đang ở đó; và tuyết , tuyết rơi trắng xóa phủ khắp nơi, nổi bật trong nền trời xanh lơ. Tuyệt vời quá ! Đẹp quá !  
  
Cô kể tiếp tục :  
  
- "Chúng tôi thấy bà Bedi đang nấu ăn trong bếp. Bedi là một phụ nữ to lớn, đẫy đà, với đôi mắt xanh to, mũi cao thẳng, và tóc đã hoa râm. Trông bà độ khỏang 50 tuổi. Trong chiếc áo cổ truyền Tây Tạng mầu đỏ xậm, bà Bedi trông còn to lớn kinh khủng hơn; nhưng bà ấy rất cởi mở và thân thiện."  
  
Cuộc đời bà Bedi kể ra cũng rất lý thú. Bà thuộc dòng dõi qúy tộc Anh quốc; và cuộc tình giữa bà và người sinh viên gốc Ấn tại đại học Oxford (sau này là chồng bà) đã chấn động cả thành phố bà đang ở với gia đình. Bà quyết định lấy người bà yêu và chống lại thành kiến phân biệt giai cấp và chủng tộc của chế độ phong kiến Anh quốc. Bà và người chồng rời khỏi xứ Anh, nơi đã đem lại cho bà nhiều đau khổ hơn là sung sướng.  
  
Năm 1959, khi dân Tây Tạng lưu vong theo chân Đức Đạt Lai Lạt Ma chạy trốn qua Ấn, bà Bedi xin xuất gia và được Ngài cho pháp danh là Khechock Palmo. Bà đã giúp đỡ người Tây Tạng thật nhiều và ngay cả Trungpa cũng đã theo học Anh văn cơ bản tại học viện do bà sáng lập. Tuy nhiên, bà Bedi không biết nắm lấy thời cơ; khi thị trường đất đai tại Ấn sụt giá, bà lại đi mua những thứ không cần thiết - vì thế, khi giá cả thay đổi, bà Bedi đã mất sạch tiền. Nhưng dù sao đi nữa, Bedi vẫn là người cống hiến rất nhiều cho Phật giáo Tây Tạng trong những năm đầu lưu vong tại Ấn.  
  
Dalhousie là vùng đồi núi đẹp phủ đầy thông xanh. Hàng ngàn con khỉ đủ loại đang chen chúc nhau ở tại đó. Khi Tenzin đến Dalhousie, cô thấy vẫn còn những ngôi nhà thờ Chính Thống giáo Anh quốc, vài trụ sở, và những căn nhà cổ kiểu Anh với trần nhà cao, hành lang rộng và vườn hoa đầy hoa hồng, hoa thược dược. Khi ta leo lên tới độ cao 7.000 bộ, Dalhousie không những cống hiến cho ta một cảm giác sảng khoái lâng lâng tuyệt đỉnh của tâm hồn, mà còn phơi bầy trước mắt ta một phong cảnh thần tiên diễm lệ tuyệt vời của những cánh đồng xanh mướt chân trời xứ Ấn và dãy Hy Mã Lạp Sơn hoành tráng sừng sững như một vị thần linh đầy uy quyền đang dang tay che chở toàn dân Tây Tạng. Đứng trước quang cảnh hùng vĩ đó, Tenzin cảm thấy con người thật nhỏ bé, quá yếu đuối trước thiên nhiên.  
  
Qua bà Bedi, Tenzin biết rằng Dalhousie là trạm dừng chân đầu tiên của 5.000 dân lưu vong Tây Tạng. Sau đó họ di chuyển xuống vùng Dharamsala, đi Nam Ấn và vài vùng định cư khác; nhưng năm 1963, khi dân số lưu vong Tây Tạng đã lớn rộng, các vị Lạt Ma cao cấp đã quyết định dựng tu viện như các tu viện lớn Sera và Drepung tại Tây Tạng, và họ cố gắng tái tạo và gìn giữ những di tích cổ truyền hay phong tục Tây Tạng tại xứ người.  
  
Tenzin nhớ lại :  
  
- "Dalhousie là nơi tu học lý tưởng, tuyệt vời. — đó, không có xe hơi và bụi bặm dơ bẩn. Không khí trong lành, mát mẻ. Sáng và chiều, mọi người đều ra đồng làm việc, các vị Lạt Ma tụng đọc kinh điển. Ai nấy đều vui vẻ tự do, ca hát sảng khoái."  
  
Là một phụ nữ Tây Phương đầu tiên trong số rất ít người ngoại quốc đến Dalhousie, Tenzin được sự lưu ý đặc biệt của dân Tây Tạng cũng như các vị Lạt Ma.  
  
Lần đầu tiên được gọi đến chào hỏi ngài Karmapa, vị Lạt Ma cao cấp nhất của tông phái Kargyu, Tenzin thấy run sợ trước vẻ nghiêm khắc của Ngài. Ngài Karmapa được tôn sùng không kém Đức Đạt Lai lạt Ma.  
  
Ba tháng sau ngày Tenzin đến Dalhousie, cô được diện kiến Đức Đạt Lai Lạt Ma, "Phật Sống" của dân Tây Tạng. Tenzin mặc quốc phục của người nữ Tây Tạng để vào đảnh lễ Đức Đạt Lai Lạt Ma.  
  
Vừa thấy cô, Ngài nói :  
  
- "Ồ, trông cô giống như người ở vùng Lhasa. Thế nào, ni cô, sự tu tập của cô có tiến bộ chút nào không?"  
 

Câu hỏi của Đức Đạt Lai Lạt Ma làm Tenzin sửng sốt.  
  
 - "Tôi không hiểu sao Ngài lại gọi tôi là "Ani-la" (ni cô) giống như cách của hai vị tu sĩ gặp nhau và chào hỏi nhau. Không lẽ Đức Đạt Lai Lạt Ma thấy được quá khứ và tương lai của tôi?"  
  
Tenzin nhìn Đức Đạt Lai Lạt Ma và tự nhiên cô buột miệng nói :"Không, tôi không phải đến từ Lhasa. Tôi là Khampa, người xứ Kham." (Khampa là một sắc dân thuộc miền Đông Tây Tạng)  
  
 - "Cô có những kế hoạch, phương án như thế nào?" Đức Đạt Lai Lạt Ma hỏi tiếp.  
  
 - "Những chương trình dự án, dù vĩ đại đến đâu, cũng đều tan thành tro bụi. Ngài biết rõ như vậy." Tenzin bướng bỉnh trả lời. Cô biết là Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ hỏi đố vậy thôi. Vạn vật đều vô thường. Cô không có một chương trình dự án gì cả; ngoài sự nỗ lực đi tìm chân lý.  
  
Một tuần lễ sau, Tenzin gặp được người quan trọng nhất đời cô - người mà cô đã bỏ xứ sở để qua Ấn Độ tìm kiếm. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7458)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8373)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7140)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6017)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 6964)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5275)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3964)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8480)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 22806)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4603)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]