Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thằng Cu Róm

06/12/201406:37(Xem: 3738)
Thằng Cu Róm

Thằng Cu Róm

 

 Ba Noi Hoa Lan

 

T

huở nhỏ tôi mồ côi bố sớm, ở vào cái tuổi con nít vừa mới chập chững biết đi chưa nói được câu gọi bố lần đầu, bố tôi đã đi về miền cát bụi. Sự ra đi của ông đột ngột quá, còn trẻ quá mới 27 tuổi đầu làm sao không để lại bao luyến tiếc cho người ở lại. Dĩ nhiên mẹ tôi là người chịu nhiều đau đớn nhất, mới lấy chồng được hai năm cộng thêm đời chiến binh nên chỉ ở gần chồng vỏn vẹn có một tháng là nhiều. Con thơ còn bế ngửa trên tay, đầu quấn khăn tang người chồng yêu quí, đã phải xách tay nải leo lên chiếc thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường như một bài hát nào đó.

Thế rồi gia đình tôi định cư tại bến bờ bình yên của một vùng biển rì rào cát trắng, kể từ đó cuộc đời tôi gắn liền với một nhân vật vừa mang hình ảnh mẹ hiền vừa là bà nội.

Bà Nội tôi sinh năm nào chẳng ai trong gia đình nhớ đến, chỉ riêng cô cháu gái bé nhỏ nhớ được năm sinh của bà là cùng năm với nhà văn Khái Hưng trong Tự Lực Văn Đoàn. Nghĩa là từ thời mi-nớp xăng cà cộ của thế kỷ mười chín, cái thời thiên hạ còn nhuộm răng đen hạt huyền, con gái không được quyền đi học. Vì các cụ nghĩ cho con gái biết chữ chỉ tổ đi viết thư cho trai mà thôi.

Lỡ sinh ra trong thời kỳ Nửa Chừng Xuân và Đoạn Tuyệt ấy, bà nội tôi không biết đọc biết viết. Ấy thế mà bao nhiêu ca dao tục ngữ, truyện Kiều, Lục Vân Tiên... cụ thuộc vanh vách. Tôi nhớ những buổi trưa hè oi ả, hai bà cháu một già một trẻ nằm trên tấm đi-văng bằng gỗ lim lau sạch bóng, vắt chân chữ Ngũ đánh củ khoai lang, ngâm nga những câu tình tự dân tộc như:

Sự đời như cái Lá Đa.

Đen như mõm chó chém cha sự đời.

Thuở nhỏ với đầu óc non nớt làm sao tôi hiểu được ý nghĩa sâu xa của hai câu ấy, đến cái Lá Đa còn chưa biết hình dáng ra sao nữa là.

Bà nội tôi thương bố tôi lắm, chắc hợp tuổi và tính tình hòa nhã với mọi người, nhất là hiếu thuận đặc biệt với mẹ. Bà cụ định gửi gấm tuổi già của mình vào gia đình người con trai yêu quí này, nhưng trời đất quá oái oăm đã cướp mất đi nguồn hy vọng thật bình thường của cụ. Thế là tôi đương nhiên được nhận hết tất cả tình thương của bà nội đổ dồn vào như thác lũ triều dâng, không còn một khoảng trống nào cho các cháu nội khác của cụ. Tấn bi kịch bắt đầu từ đấy các bạn ạ!

Luận về chữ Hiếu, tôi phải kể câu chuyện lạ lùng về cái tình mẫu tử giữa bà tôi và cậu con trai cả của cụ. Bà tôi sinh thời có bốn người con, hai trai hai gái, cách nhau mỗi người đúng bốn năm. Hai cô con gái vừa lớn đã gả chồng tỉnh xa, xem như thuộc về gia đình khác rồi. Bà tôi chỉ hợp với bố tôi và khắc tinh với cậu cả.

Bà hay gọi bác tôi là thằng Cu Róm, vì lúc nhỏ bác hay bắt nạt bố tôi. Mỗi sáng đi học mẹ thường cho mỗi cậu 5 xu, bố tôi chỉ ăn 3 xu, còn 2 xu cất về trả mẹ, phần bác tôi chẳng những xơi hết, còn đòi tẩn ông em để lấy thêm 2 xu nữa. Chả trách gì bà mẹ thiên vị chỉ thương ông em thôi.

Nếu nói câu

Thương ai thương cả đường đi lối về.

Ghét ai ghét cả tông ti họ hàng.

rất phù hợp với tâm trạng của bà tôi. Bà cụ thương bố tôi rồi, không cần biết phải trái gì, cứ một mực thương tiếp đến đời con của ông nữa. Trong khi ấy, trừ ông anh họ con người vợ trước của bác tôi ra, bà cụ thường lạnh nhạt với những người con của bác gái tôi sau này. Như vậy tạo ra một sự bất hòa rất lớn trong gia đình, sau này chính bà tôi là nạn nhân nhận tất cả các quả do cái nhân thương yêu không đồng đều ấy.

Trời rất oái oăm, khi bà tôi cứ một mực đòi sống với gia đình bố tôi, không muốn nhìn mặt cái thằng Cu Róm ấy. Bố tôi lại ra đi sớm, bà cụ vẫn cương quyết một lòng theo tôi, xem con dâu như con gái. Nhiều lúc bác tôi cũng buồn, ông bảo chắc ông không phải là con đẻ, bà cụ nhặt được ở bụi tre vườn chuối nào.

Lúc về già, bà tôi hay vào Đền lên Đồng của cô Nga, nghe tiếng hát Cung Văn, xem nhảy múa giải sầu. Bác tôi mời mãi, cực chẳng đã vì tuổi già sức yếu cụ mới vào Sài Gòn rồi theo bác tôi sang Mỹ.

Bẵng đi gần mười lăm năm nơi xứ người, bà tôi sống như một cái bóng trong gia đình bác tôi. Các cháu nội và cô con dâu bên cạnh oán hận bà, vì bà lúc nào cũng chỉ nhớ các cháu ở phương xa, ý muốn ám chỉ tôi và ông anh họ bên Đức.

Vậy ai đã chăm sóc cơm nước, tắm rửa cho bà nội tôi sống đến 92 tuổi, đó chính là thằng Cu Róm của cụ, người con cụ ghét cay ghét đắng, không muốn nhìn mặt.

Ngày tôi sang Mỹ thăm Bà Nội, trời ơi cụ vui mừng khôn xiết hai bà cháu cứ quấn quít bên nhau không nỡ cách xa. Mười năm trước cụ đã may sẵn quần áo để dành cho hậu sự, nhưng chờ hoài chờ mãi chẳng thấy động tĩnh gì chỉ tổ làm mồi cho mấy con mối gậm nhấm mà thôi. Tôi được giao trọng trách may lại cho bà chiếc quần trắng đã bị cắn thủng nhiều lỗ để bà yên tâm chờ tiếp.

Dĩ nhiên tôi muốn rủ bác tôi cùng đi đến nơi đô hội như Las Vegas vài ngày cho biết thế nào là văn minh thế giới, thế nào là sòng bài quốc tế móc túi những kẻ bị con ma cờ bạc hớp hồn. Nhưng bác tôi từ chối thẳng:

Cháu đi một mình đi! Bác mà đi ai lo cho bà, để bà chết đói à!

Chỉ nghĩ đến cảnh một người con trai trên bảy mươi tuổi, ngày ba bữa đút cơm nuôi mẹ, chưa kể tắm rửa, lau chùi. Không phải một bữa hay hai ba ngày, mà ròng rã suốt mười lăm năm trời.

Lúc kể chuyện tại sao bà mất, bác tôi cười hề hề bảo:

-  Tao đang đút cơm cho bà, chắc bà cụ chán sống, nên không buồn nuốt, nghẹn cổ rồi đi luôn.

Tôi nghĩ bác tôi phải là một vị Bồ Tát hóa thân, lúc sống không ai thương sót, từ mẹ đến vợ con ai cũng muốn xa lánh, vì bác tôi không biết biểu lộ tình cảm, lúc nào cũng khoác trên thân cái vỏ khó ưa. Bây giờ bác đã ra đi rồi, không biết ngoài tôi có còn ai thương bác nữa không? Chắc phải có rồi, các con bác rất đông, các anh chị trong bụng rất thương bố, nhưng lúc sinh thời gặp ông bố khó tính quá, không ai dám lại gần và ông cũng không muốn cho ai lại gần. Nên sự thể mới xảy ra như vậy thôi.

Nếu đi sâu vào thâm cung bí sử trong gia đình tôi, phải nói là rắc rối tơ vò. Bà nội tôi tất cả đều hoàn hảo, không chê được vào đâu, chỉ bị một điểm không phải là tính thiên vị. Này nhé! Con yêu con ghét, con dâu yêu con dâu ghét, cháu thương nhiều cháu thương ít, chỉ chừng ấy thôi mà ân oán giang hồ kéo đến mấy đời vẫn chưa dứt.

Bác gái tôi lúc về làm dâu hãy còn quá trẻ, mới 18 tuổi đã làm mẹ kế ông anh họ tôi 12 tuổi. Bà nội tôi chỉ thương con dâu chín chắn, biết tằn tiện và chí thú làm ăn, cỡ như mẹ tôi vậy đó. Bác gái tôi làm sao thích hợp được với môi trường, đâm ra phiền não, có cảm giác bị hắt hủi, ghét bỏ.

Tôi trái lại rất thích bà bác chịu chơi này, tối ngày hai bác cháu cứ dẫn nhau đi xem cinéma, ăn quà và mướn truyện Quỳnh Dao đọc lén. Bác trai tôi vớ được truyện sẽ xé ngay bảo: Đàn bà con gái không được xem tiểu thuyết nhảm nhí, mất thì giờ.

Thường là bác gái tôi xem trước, chuyền sang cho tôi và cuối cùng đến tay cô con gái lớn của bác. Hôm nào chị nhỏ để quên không giấu dưới nệm ghế sa-lông là bác gái tôi phải mất thêm món tiền đền quyển truyện.

Cả thời thơ ấu, tôi gần gũi bác gái nhiều hơn cả mẹ, vì mẹ tôi đi làm cả ngày, về nhà hãy để mẹ nghỉ ngơi, đừng nhõng nhẽo sẽ bị chổi phất trần cho vào mông.

Bác có một trí nhớ dai rất đáng ngại, bao nhiêu thi phú chỉ cần đọc qua vài lần là thuộc vanh vách. Bác gái tôi sản xuất rất mau lẹ, ban đầu là ba năm hai đứa, sau mỗi năm một đứa, cuối cùng đầu năm con trai cuối năm con gái. Các cụ bảo cứ đẻ chừng nào hết trứng thì thôi. Nên tài năng ca hát, ngâm thơ, ru con bác có dịp trổ tài. Tôi chịu nhiều ảnh hưởng của nền văn hóa bác gái tôi.

Nếu ru con bằng những bài thơ cổ, nó vẫn chê không chịu nín khóc. Bác chế nhạc giễu cho nó cười:

Anh tán con tiều con hươu khiến cho lòng em siêu. Trời ơi đất hỡi! Đau đớn thay con người nói điêu. Nhưng xét ra là anh nói liều…

Có thể nói mối quan hệ giữa bác gái và tôi như một cặp tri kỷ tri âm so le không đều. Với chồng mình, bác không có sự truyền thông, xa nhau thì thôi, chứ gặp mặt là gừ gừ, cãi bậy chọc ổng nổi nóng là bị thụi ngay. Với mẹ chồng thì hoàn toàn đông lạnh rồi, con còn bé quá chưa tâm sự được. Rốt cuộc chỉ còn cô cháu nhỏ, nhiều lúc cũng thấy ghét vì tính nhõng nhẽo ỷ mình được bà thương rồi làm nũng.

Sau này gặp lại nhau bên Mỹ, bác cháu vẫn tương đắc, bác tính tình rộng rãi, chiêu đãi cô cháu gái rất hậu hỹ.

Nhưng đám mây mù của thời dĩ vãng vẫn lẩn quẩn đâu đây. Câu chuyện hồi nhỏ tham ăn của tôi đã được nhắc tới. Chỉ vì một trái Na thôi, trái Mãng Cầu đó các bạn ạ. Thật là:

Miếng ăn là miếng tồi tàn.

Mất ăn một miếng lộn gan đằng đầu.

Hai bà cháu tôi đã xử sự không phải với các con của bác, để họ mang mãi hình ảnh cháu thương cháu ghét đến ngày nay.

 Bây giờ các con của bác đã thành đạt giàu sang nơi xứ người. Cho dù tôi có muốn chuộc lỗi bằng cả chục quả Na, chưa chắc họ đã vui bằng một góc quả Na ngày xưa.

 

Hoa Lan.

Mùa xuân 2005.

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2018(Xem: 4565)
40 Năm Ở Mỹ, sách của TT Thích Từ Lực
11/01/2018(Xem: 5186)
Vào những năm đầu của thập niên 2000, khi cây bút đang còn sung sức, tôi viết rất nhiều bài về danh lam thắng cảnh trên quê hương Nha Trang của mình để giới thiệu trên các báo và tạp chí khắp đất nước. Trong số đó, hiển nhiên là có bài viết về ngôi chùa đã lưu nhiều hình ảnh, dấu ấn kỷ niệm vào ký ức tuổi thơ của tôi với tên gọi thân quen mộc mạc: “Chùa Núi Sinh Trung”.
08/01/2018(Xem: 11680)
Hồi còn tại thế xưa kia Trên đường giáo hóa Phật đi qua làng Ngài đi cùng ông A Nan Khai tâm gieo ánh đạo vàng giúp dân. Đang đi ngài bỗng dừng chân Bước quanh lối khác có phần xa thêm Ông A Nan rất ngạc nhiên Vội lên tiếng hỏi. Phật liền giảng ra: "Này A Nan phía trước ta Có quân giặc cướp thật là hiểm nguy Sau ta ba kẻ đang đi Gặp quân giặc đó khó bề thoát qua!"
08/01/2018(Xem: 9847)
Ở bên Ấn Độ thuở xưa Nơi thành Xá Vệ, buổi trưa một ngày Gia đình kia thật duyên may Phật thương hóa độ, dừng ngay tại nhà, Tiếc thay chồng vợ tỏ ra Tham lam, độc ác, xấu xa, hung tàn. Hóa thành một vị đạo nhân Phật đi khất thực dừng chân trước thềm Ôm bình bát, đứng trang nghiêm, Anh chồng đi vắng, vợ liền nhảy ra Tay xua đuổi, miệng hét la
07/01/2018(Xem: 7870)
Sau mỗi lần có dịp viếng thăm các chứng tích như tượng đài, lăng mộ, viện bảo tàng, nhà lưu niệm, ..., của những nhân vật mà cuộc đời phần nào liên quan đến đời sống vật chất hay tinh thần, sự thịnh suy ,... của một nhóm người, một dân tộc, một vùng, một quốc gia,..., tôi ra về lòng những bâng khuâng với hai câu : Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên.
21/12/2017(Xem: 3873)
Anh sinh ra và lớn lên ở miền gió cát khô nóng Phan Rang. Là một Phật tử thuần thành, lại được phước báu khi có đến hai người con trai xuất gia, nên nhân duyên đưa đẩy đã trở thành đạo hữu của tôi qua nhiều lần hội ngộ lạ lùng ở các thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Kết tình đạo hữu với nhau đã gần mười năm rồi, mỗi lần gặp mặt, tôi và anh đều tay bắt mặt mừng, trò chuyện thân mật, nhưng người huyên thiên lúc đàm đạo là anh, còn tôi thì cứ chỉ biết gật gù, mỉm cười, họa hoằn lắm mới buông một đôi câu phụ họa. Anh quý mến tôi ở điểm đó.
15/12/2017(Xem: 6481)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 88384)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
29/11/2017(Xem: 6712)
Trong loạt bài Kể Chuyện Đường Xa lần này, người viết đặt thêm tên cho mục này Vòng Quanh Thế Giới, để có cùng tên với loạt phóng sự sẽ đưa lên tvtsonline.com.au với nhạc hiệu mở đầu của bài “Vòng quanh thế giới” người viết sáng tác gần bốn thập niên trước đây. Từ năm 1990, chúng tôi đã bắt đầu viết bút ký với chuyến đi Bangkok (Thái Lan) và loạt bài cuối cùng là chuyến du lịch Âu Châu vào năm 2015.
27/11/2017(Xem: 4944)
Nếu chấp nhận thuyết nhân duyên của Đạo Phật thì có thể dễ dàng, giải thích cho mọi tình huống và mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời nầy. Nhân duyên hay duyên sanh cũng tương tự với nhau. Đó là: „Cái nầy có cho nên cái kia có; cái nầy sanh cho nên cái kia sanh. Cái nầy diệt, cho nên cái kia cũng diệt theo“. Không ai trong chúng ta có thể biết trước được việc gì sẽ xảy đến cho mình về sau nầy cả; dầu cho chúng ta có cố gắng làm mọi việc tốt đẹp trong hiện tại; nhưng dư báo trong quá khứ, ai biết được thiện, ác còn lại bao nhiêu mà lường được. Chỉ khi nào nắp quan tài đậy lại trong kiếp nầy, thì lúc ấy ta mới biết được cái quả trong hiện tại là cái nhân như thế nào mà trong quá khứ của chúng ta đã gây ra và chính cái quả của ngày hôm nay sẽ là cái nhân cho ngày sau nữa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]