Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tản Mạn Về Một Bữa Ăn Sáng

10/10/201406:57(Xem: 4366)
Tản Mạn Về Một Bữa Ăn Sáng
batcomhuongtich2
         
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.

Mấy ngày qua mưa gió dầm dề, không gian nặng nề u ám, thế gian ẩm ướt nhạt nhòa, vạn vật co ro run rẩy trước cơn thịnh nộ của tạo hóa, bão giông. Hôm nay nắng đẹp, mặt trời rạng rỡ giữa không gian trong suốt như pha lê, một nguồn năng lượng khổng lồ từ mặt trời tuôn trào như thác đổ xuống nuôi sống và sưởi ấm thế gian, vạn vật mừng vui hớn hở, nhảy múa tưng bừng.

Anh Sinh rủ tôi đi chợ. Mấy ngày ngồi thu lu như con mèo bên xó bếp, tê cóng tay chân, nay trời trong nắng ấm cũng nên hòa mình vào điệu múa của vũ trụ cho giãn gân giãn cốt. Ngang nhà anh Đẹp, thấy anh đứng trước sân, chúng tôi rủ anh cùng đi cho vui.

Ba chúng tôi bước vào một quán ăn đông khách. Cô chạy bàn mau mắn đến lau dọn một bàn khách vừa ăn xong, mời chúng tôi ngồi và hỏi chúng tôi ăn gì. Anh Sinh hỏi cô ấy quán có gì ăn. Cô ấy liệt kê một hơi nào là cơm, cháo, hủ tiếu, bánh lọt, bún thịt xào…Tôi kêu tô cháo, anh Sinh dĩa cơm sườn, anh Đẹp tô hủ tiếu. Lát sau cô ấy bưng thức ăn ra, riêng tô cháo của tôi có kèm thêm dĩa bánh hỏi nhỏ, hỏi chúng tôi uống gì. Tôi uống trà đá đường, anh Sinh anh Đẹp uống cà phê đá.

Chúng tôi vừa ăn vừa trò chuyện. Anh Sinh nhìn lướt qua các món ăn, nói vui: “Cơm cháo hủ tiếu đều làm từ gạo, chỉ khác ở cách làm và tên gọi. Nghĩ ra dân mình giỏi thiệt, rất khéo tay. Nấu khô là cơm, lỏng là cháo, ép thành cọng là bún, cắt thành sợi là hủ tiếu. Nếu không khéo tay làm sao chế ra được nhiều món ăn và nhiều thứ bánh khác nữa, hai anh thấy đúng không?”. Anh Đẹp ngước lên, nói :“Theo tui thì do gạo là chính. Nếu khéo tay sao người ta không làm các loại đậu mè khoai bắp thành nhiều món ăn và nhiều thứ bánh như gạo?”.

Tôi lại nghĩ khác. Nói gạo và khéo tay là hai yếu tố chính làm ra các món ăn và các thứ bánh thì chưa đủ. Bởi vì, chỉ có gạo mà không có phương tiện làm sao nấu thành cơm, xây ra bột? Có cơm có bột mà không có các phụ liệu, gia vị khác làm sao chế biến thành các món ăn và các thứ bánh? Bản thân hạt gạo cũng do thân rễ lá cây lúa cùng đất nước, nắng mưa, sương gió…và cả mồ hôi nước mắt của nông dân hợp lại tạo thành. 
 
Khéo tay cũng không phải trời cho, vốn sẳn có của con người mà phải trải qua quá trình lao động con người mới nảy sinh óc sáng tạo. Do đó, tự hạt gạo và sự khéo tay không quyết định được sự hiện hữu của các món ăn và các thứ bánh mà chúng là tổng hợp của sức lao động, nguyên liệu, phương tiện, phụ liệu, gia vị chứ không có thứ nào là thành phần chủ yếu như anh Sinh và anh Đẹp nói. Nếu thiếu vài thứ hoặc tách rời chúng ra, mỗi thứ đều tồn tại độc lập sẽ không bao giờ có các món ăn và các thứ bánh.

Cách nghĩ của hai bạn tôi thì na ná như khái niệm “hạt cơ bản” xuất phát từ thời Hy Lạp cổ đại. Khái niệm nầy cho rằng nguyên tử là hạt nhỏ nhất, cứng chắc, đầy đặc, không thể phân chia và là “hạt cơ bản” của vật chất, tạo ra vật chất. Từ đó, thuyết nguyên tử được xây dựng và nhanh chóng trở thành cơ sở, nền tảng vững chắc cho triết học và khoa học cổ điển phát triển rực rỡ cùng với những thành tựu to lớn do nó mang lại suốt một thời gian dài. Mãi đến cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, nền khoa học hiện đại phát hiện nhiều điều mới mẻ, lạ lùng về nguyên tử thì khái niệm “hạt cơ bản” bị lung lay và gần như sụp đổ.

Những phát hiện mới mẻ, lạ lùng đó cho thấy nguyên tử không phải “hạt cơ bản” của vật chất và tạo ra vật chất, không phải là hạt nhỏ nhất, đầy đặc, cứng chắc mà nó rỗng không, được cấu tạo bởi các hạt nhỏ hơn như electron, hạt nhân, neutron, proton. Ngoài những hạt đó ra, người ta còn tìm được vài trăm hạt khác nữa, tạo nên một thế giới hạt hạ nguyên tử phong phú, đa dạng. 
 
Chúng vừa là khối lượng vừa là năng lượng nằm rải rác khắp nơi trong mạng lưới “trường” bao la trong không gian. Chúng vận động và tương tác lẫn nhau liên tục, tạo ra quá trình sinh diệt của thiên hình vạn trạng hiện tượng và biến cố trong vũ trụ, biến vũ trụ thành một sinh cơ và biến sự vận hành của vũ trụ thành một điệu múa hoành tráng, hài hòa, năng động .    

Thật ra, những phát hiện của khoa học hiện đại không có gì mới mẻ, lạ lùng do chúng đã được Phật Thích Ca biết đến hơn hai ngàn năm trăm năm trước. Bằng phương pháp quán chiếu, Ngài thấy vạn pháp (mọi sự vật và cả thân ngũ uẩn của chúng ta) đều do duyên sanh, hễ duyên hợp thì pháp thành, duyên tan thì pháp hoại. Do đó, các pháp đều không có tự tánh, tự thể riêng biệt mà Ngài gọi là “bản ngã” (cái tôi, cái ta). 
 
Khái niệm “bản ngã” của Phật giáo tương đương với khái niệm “hạt cơ bản” của khoa học cổ điển, và “duyên” của Phật giáo tương đương với “hạt năng lượng” của khoa hoc hiện đại. Cũng như các hạt năng lượng, không có duyên nào cơ bản tạo ra các pháp mà các pháp được tạo ra bằng sự tương tức tương nhập của chúng với nhau, cái nầy có cái kia mới có, pháp nầy sinh pháp kia mới sinh. Đối với con người cũng vậy, cơ thể chúng ta là tổng hợp của rất nhiều cơ quan, bộ phận và rất nhiều thành phần khác của tự nhiên, xã hội và gia đình từ vật chất đến tinh thần…ngoại trừ cái “bản ngã” là không có. 
 
Nói thế có nghĩa là cơ thể chúng ta không chứa “bản ngã” và tự nó không thể tạo ra cơ thể chúng ta. Nếu lấy ra vài cơ quan, bộ phận của cơ thể, vài thành phần khác của tự nhiên, xã hội và gia đình trong cái tổng thể thì nó sẽ không thành cơ thể con người. Tóm lại, do vạn pháp không có tự tính, tự thể riêng biệt nên chúng chỉ là giả tướng chứ không phải thật tướng.

Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.

Thuyết “Vô ngã” là một trong những nguyên lý tự nhiên được Phật Thích Ca đưa xuống bình diện con người mang tính tâm lý thực tiễn sinh động chứ không mang tính huyền thoại siêu hình và đã được thực tế chứng minh. Ngoài thuyết “Vô ngã” còn có khái niệm Nghiệp (Karma) là đầu mối của mọi cái “Khổ” và nguyên lý vũ trụ luôn luôn vận động, biến dịch mà Phật giáo gọi là “Vô thường”. 
 
Nhà Vật lý học hạt nhân người Mỹ J.R.Oppenheimer (1904-1967) thừa nhận :“những quan điểm chung về nhận thức của con người, được minh họa bởi những phát hiện của vật lý nguyên tử, tự nó không xa lạ hay khó hiểu. Ngay trong nền văn hóa của chúng ta, chúng đã có lịch sử và trong tư tưởng Phật giáo hay Ấn Độ giáo chúng có một chỗ đứng trung tâm đáng kể. Điều mà ta phát hiện chỉ nêu thêm thí dụ, xác nhận và làm tinh tế thêm cho một nền minh triết cổ xưa./
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/09/2016(Xem: 5686)
Vào cuối đời Tây Tấn, vua Huệ Đế ngu tối, việc triều chính đều do hoàng hậu Giả thị chủ trương. Giả hậu là người nham hiểm, lại biết quyền biến đởm lược, mưu giết các thân vương, phế bỏ Thái tử. Triệu Vương Luân bèn phẫn uất, cử binh giết Giả hậu, truất phế vua Huệ Đế mà tự xưng lên làm vua. Các thân vương khác thấy vậy cũng dấy binh tranh giành lẫn nhau, cốt nhục tương tàn, làm cho nhà Tấn suy yếu.
22/08/2016(Xem: 4617)
Sáng hôm nay trong thinh lặng của một sáng chủ nhật mùa đông, tôi muốn dành tâm trí thảnh thơi để viết vài hàng trả nợ cho cô bạn tí hon ngày xưa. Nợ vì tôi cứ hẹn sẽ viết cho nàng. Gọi là bạn nhưng chưa bao giờ nói chuyện, gọi là bạn vì học cùng trường. Tí hon vì nhỏ hơn tôi ba tuổi. Từ nhỏ, tôi có một tật rất xấu, tôi xem ai nhỏ tuổi hơn tôi là con nít. Vì sao chỉ hơn vài tuổi mà khi nào tôi cũng có cảm tưởng như mình đứng rất cao để nhìn xuống những người tí hon này!
11/08/2016(Xem: 4229)
Nó không biết chính xác năm nay mình bao nhiêu tuổi, chỉ nghe sư thầy nói nó ở chùa đã 12 năm với cái tên Quảng Chân Tâm. Tất cả những đứa trẻ ở chùa ngoài tên đời do cha mẹ đặt, sư thầy đều cho pháp danh với chữ Quảng đứng đầu.
03/08/2016(Xem: 37079)
Nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện [1941 - 2011] qua đời năm 2011 tại Houston, nhưng chuyện kể, các bài viết về anh đã nhiều lầm lạc : Người viết : anh bỏ áo tu hành lấy cô vợ người Pháp, theo Thiên Chúa Giáo, kẻ khác viết : anh không hề có một mảnh bằng kể cả bằng tú tài mà dạy Triết Học Viện Đại học Sorbonne, mười lăm tuổi anh đọc và viết hàng chục ngôn ngữ, mười lăm tuổi anh dạy trung học, hai mươi tuổi anh là khoa trưởng khoa Khoa Học Nhân Văn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn, anh là triết gia không cần học một ai ? Dạy Triết học tại một Đại Học Pháp mà không cần một văn bằng nào ?
25/07/2016(Xem: 5300)
Người đàn bà đến bên cửa sổ ghé mắt nhìn ra ngoài trời. Qua lớp mưa mù dầy đặc trắng xoá ngoài kia bà chẳng nhìn thấy được gì ngoài những tia chớp xé toạt không gian kèm theo hàng loạt tiếng sấm như long lỡ đất trời. Thời tiết chiều nay quá xấu, xấu hơn người ta đã dự đoán và xấu hơn sự suy nghĩ của Quang, đứa con trai lớn của bà. Đã mấy tháng rồi nó mới có dịp bay về thăm bà vậy mà hôm nay trời lại mưa bão quá chừng! Trước khi lên máy bay nó còn gọi báo cho bà biết: - Bên đây thời tiết đẹp lắm má! Mong rằng khi con bay sang đến Cali thì trời quang mây tạnh, con sẽ chở má đi ăn và ở chơi với má đến tối mới về lại khách sạn.
06/07/2016(Xem: 8671)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình với tựa đề là “Nước Úc trong tâm tôi” để sang năm 2016 sẽ xuất bản và ấn tống. Tác phẩm nầy được viết trong mùa An Cư Kiết Hạ lần thứ 31 của năm Ất Mùi, nghĩa là từ năm 1984 đến nay (2015) cứ mỗi năm ba tháng như vậy, Thầy trò chúng tôi có trọn vẹn 3 tháng an cư tại chùa Viên Giác thật là an lạc. Chương trình mỗi ngày được bắt đầu từ 5 giờ 45 sáng. Đại Chúng vân tập nơi Tổ Đường để xá Tổ, sau đó lên Chánh Điện, hô canh và tọa thiền 15 phút. Sau khi xả thiền, Đại Chúng bắt đầu trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm, phần giữa của thời khóa có kinh hành niệm Phật ba vòng, tiếp đó lạy danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát và Thánh Chúng độ 35 lạy. Sau thời công phu khuya ai về phòng nấy để nghỉ ngơi hay hành trì tiếp, hoặc tập thể dục. Đúng 8 giờ sáng là giờ điểm tâm của Đại Chúng, ai nấy đều tỉnh thức trong lúc dùng sáng, không nói chuyện, mà câu chuyện hằng ngày chỉ được
13/06/2016(Xem: 4396)
Hoa Lan nhất định không đầu hàng ngẩng mặt than thở: “Đời là bể khổ, tình là giây oan“ như cụ Tố Như đâu. Hoa Lan phải tâm tâm niệm niệm cột vào tâm câu Nhất thiết duy tâm tạo, khổ hay vui đều do cái đầu và bàn tay năm ngón của ta điều binh khiển tướng. Hoa Lan sẽ kể về nỗi khổ, niềm đau của thế gian trong trường thiên Tỵ Nạn Tình Duyên, một vấn nạn trong cuộc sống lứa đôi, trong vòng ái ân, sinh tử. Nỗi khổ chúng sanh chỉ cần khoanh vùng trong hai chữ tỵ nạn cũng đủ làm ta khiếp vía. Nào tỵ nạn cộng sản, con rơi của tỵ nạn chính trị, cháu rớt của tỵ nạn kinh tế, những đề tài ấy nhắc đến đã đủ ù tai hoa mắt và cũng chẳng phải là sở trường của mình, Hoa Lan sẽ kể về đề tài tỵ nạn tình duyên, nơi đã đi, đã đến và đã về.
01/06/2016(Xem: 13206)
Bài này được viết như một ghi chú cho Thiền Tông, để như một cách tiếp cận đơn giản… và hy vọng, cũng là một ghi chú cho rất nhiều pháp khác của nhà Phật, kể cả Tịnh Độ. Bởi vì, Thiền Tông là pháp môn cốt tủy nhất, trực tiếp nhất, không qua bất kỳ phương tiện nào khác, và cũng có thể dùng làm chiếc cửa lớn cho tất cả các pháp khác.
31/05/2016(Xem: 20940)
Chuyện xảy ra ở Việt Nam, nhưng lại bắt đầu từ bên Mỹ. Số là, vào khoảng thời gian năm 1956, có một kỹ sư Hoa Kỳ tên là Frank M.Balk. Chàng kỹ sư này suốt đời chẳng biết gì về cái xứ bé nhỏ xa xôi tận vùng Đông Nam Á tên gọi là Việt Nam cả.
27/05/2016(Xem: 6564)
Bao nhiêu năm ao ước cho đến hôm nay tôi mới có duyên lành được hành hương về Tây Trúc - Tây Trúc hay Thiên Trúc là tên gọi trước đây của xứ Ấn Độ. Trong phái đoàn tôi đi có nhóm Sợi Nắng và các Phật tử đến từ Canada cũng như Hoa Kỳ. Về chư Tăng thì có thầy Tánh Tuệ - nhà thơ Như Nhiên. Thầy là người từng sống và học tập ở Ấn Độ suốt bảy năm nên thầy nắm rất rõ về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán... của người Ấn Độ. Cũng chính vì thâm niên như vậy nên nước da thầy rám nắng và người ta thường gọi thầy với cái tên rất gần gũi là "thầy cà-ri". Ngoài ra, phái đoàn còn có thêm sư cô An Phụng và sư cô Huệ Lạc
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]