Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Con Ma “Nửa đời chuông mõ“

14/08/201406:53(Xem: 3291)
Con Ma “Nửa đời chuông mõ“

co gai hoa sen

Vâng, tôi là một con Ma, các bạn đừng vội sợ hãi tôi không làm gì đâu! Tôi cũng giống như các bạn, chỉ khác một điều là tôi nhìn thấy được bạn nhưng bạn không có khả năng nhìn thấy được tôi. Để tiện việc xưng hô, cứ gọi tôi là Con Ma “Nửa đời chuông mõ“, cái tên cũng thánh thiện đấy chứ! Đã hết sợ tôi chưa? Nhân đọc bài “Bóng anh hùng“ của nhà văn Doãn Dũng, chuyên gia chuyển âm tư tưởng của người chết cho người sống cảm thông. Vì tôi lúc sinh thời là độc giả trung thành của tờ báo đạo Viên Giác, nên muốn tìm cô Bút Nữ Nhật Hưng để nhờ vả. Nhưng khi biết cô rất sợ ma, chỉ cần sự xuất hiện của tôi là cô đã hồn siêu phách lạc mất rồi. Do đó không còn sự lựa chọn nào khác hơn là tìm cô Hoa Lan để “chọn mặt gửi lời“, cái người dám tuyên bố câu “không sợ ma chỉ sợ người“.

Chủ đích của tôi hôm nay là muốn luận đàm với các bạn về đề tài “Nếu được lựa chọn tôi có muốn trở lại thân Nữ hay không?“ Tôi không còn nhiều thời gian để suy nghĩ nữa, 49 ngày cũng sắp trôi qua. Bưng bát cháo Lú trên tay là xem như đã xuôi theo nghiệp lực để ra đi. Tuy được mệnh danh là “Nửa đời chuông mõ“ nhưng tôi vẫn chưa chắc chắn sẽ được Phật A Di Đà tiếp dẫn. Cũng chẳng sao, thua kiếp này ta bày kiếp khác, trở lại cõi Ta Bà tu tiếp làm kiếp đàn bà rồi phấn đấu vươn lên. Nói như thế có nghĩa là lập trường của Ma tôi đã kiên cố, nhất quyết sẽ trở lại thân nữ không thèm đòi thân nam. Các bạn thấy Ma Nữ này kinh chưa? Không sợ khổ đau hay tủi nhục của thân phận đàn bà. Nếu lỡ sanh ra kiếp má hồng như nàng Kiều của cụ Nguyễn Du thì ít ra cũng được một lần làm anh hùng Từ Hải chết đứng. Thời đại này hồng nhan không còn bạc mệnh mà là bạc tỷ cũng nên.

Trước khi đi sâu vào chi tiết dẫn chứng cho các bạn thấy những cái cao đẹp thật tuyệt vời, chỉ có người Nữ mới làm được còn người Nam chỉ đứng lắc đầu chịu thôi. Tôi xin sơ qua vài dòng về một tiểu kiếp làm thân Nữ của tôi, để rút tỉa kinh nghiệm làm hành trang cho những tiểu kiếp về sau. Nếu kể lể dài dòng văn tự “Đời một người con gái, ước mơ đã nhiều, trời cho không được mấy, đến khi lấy chồng chỉ còn mối tình mang theo“ như ông nhạc sĩ Vũ Thành An thuở nào đó đã diễn tả, xem như đời người đẹp này đã trở thành Đời Cô Lựu mất rồi. Còn không may mắn hơn lấy được người mình thương, tâm đầu ý hợp chỉ lúc ban đầu, nhưng sau một thời gian đổ chứng cờ bạc, rượu chè, thế là thiên đường sụp đổ. Thế nhưng người Nữ đa số hay bị chồng phản bội chạy theo những bóng hồng nào khác, để mình phải vò võ nuôi con. Hoặc lấy phải người chồng xem đồng tiền to hơn bánh xe bò, cầm đồng tiền phải xoay đủ bảy vòng mới dám tiêu. Trong 4 trường hợp tiêu biểu trên, các bạn cứ chọn một hay gán luôn cả 4 trọng tội cho số kiếp của Ma tôi cũng chẳng sao. Vì càng đau thương thì lực đẩy đến bến bờ giải thoát lại càng mau. Nhớ ngày nào đang còn là cô The của Nửa đời hương phấn, bỗng biến thành Nam Mô “Nửa đời chuông mõ“ lúc nào không hay! Thôi được chúng ta hãy tạm tin cuộc đời cô Ma này đã an lạc nhờ dựa vào Chánh Pháp và hạ thủ công phu tu tập. Nhưng tại sao cô nàng lại chết và chết như thế nào? Đây mới là mấu chốt của vấn đề.

Con người ai mà chẳng chết, không chết trước thì cũng chết sau cho đúng với câu “Thành, trụ, hoại, diệt“. Lúc bước chân vào đời khi mới biết yêu, mê thơ Xuân Diệu đã gặp ngay chữ Chết trong thơ: Yêu là chết trong lòng một ít. Vì mấy khi yêu mà đã được yêu. Rồi dòng đời đưa đẩy không biết Ma tôi đã chết đến bao nhiêu lần, đấy chỉ là chết trong lòng thôi, chứ chưa chết thật! Cho đến một hôm, Ma tôi được tặng một đĩa CD của Thầy Thông Triệt với đề tài “Chết là một phép Tu“ đem về nghiền ngẫm. Rồi tham dự không biết bao nhiêu khóa Huân Tu Tịnh Độ, Niệm Phật ngày đêm. Người nào cũng hồ hởi phấn khởi tin rằng lúc lâm chung sẽ được đức từ phụ A Di Đà đưa tay tiếp dẫn. Được nghe biết bao nhiêu trường hợp của những người may mắn được cả ban hộ niệm ngày đêm túc trực tụng kinh. Rồi hết tin cụ bà nọ được vãng sanh, cụ ông kia với Thân Trung Ấm nóng rực trên đỉnh đầu. Ma tôi không biết bao giờ được chết và chết theo kiểu gì? Thế rồi một hôm Ma tôi được toại nguyện, đang ngủ trên giường bỗng thấy nặng bụng bèn lồm cồm bò dậy thì choáng váng mặt mày, ngã lăn xuống đất đi luôn không kịp niệm đến nửa câu. Bác sĩ chuẩn bệnh ghi trong hồ sơ khai tử là đứt mạch máu não hay nhồi máu cơ tim gì đó. Thuộc loại chết bất đắc kỳ tử rất tốt cho mọi người, đỡ biết bao đau đớn và thuốc men; chỉ tội chết mau quá không có ai đến hộ niệm và không kịp niệm Hồng danh A Di Đà Phật.

Thế nhưng Ma tôi vẫn phấn đấu vươn lên vì lúc nào cũng tự lực cánh sinh, khi còn sống dựa câu “Hãy tự thắp đuốc lên mà đi“, đến lúc lâm chung đã dùng “Nửa đời chuông mõ“ để sửa soạn hành trang ra đi nên không bị loạng quạng, nói theo danh từ nhà Phật là Tư lương mang theo về Tịnh Độ. Sáng ra trong vòng 8 tiếng không ai được đụng vào thân, thế mà Lão Chồng không hiểu chuyện, chắc hối hận hay sao mà cứ khư khư ôm tay vợ khóc lóc ỉ ôi, Ma tôi đứng trên cao nhìn xuống chỉ cười thầm chẳng xúc động mảy may. À! Tại sao không chịu cười lớn nhỉ! Lão ta làm sao dám giở trò Chồng chúa vợ tôi nữa đâu mà sợ. Đời chỉ bị dụ dỗ một lần, không ai ngu dại đến lần thứ hai. Phải chi lão ta đem cuốn kinh Địa Tạng để sẵn trên bàn thờ ra đọc cho người vợ dấu yêu vài Phẩm có phải lợi lạc cho cả hai không, nhưng thật ra lão được hưởng đến 6 phần còn Ma tôi chỉ vỏn vẹn có 1 phần mà thôi.

Còn cái đám con cháu nữa, không hiểu Đạo gì cả khóc lóc om xòm. Lúc Mẹ còn sống không chịu thăm hỏi săn sóc, bây giờ trông đứa nào khóc to nhất, vật vã nhiều nhất là đứa bất hiếu nhất, hối hận ấy mà! Ma tôi nghĩ lại thấy kiếp này mình thuộc diện chỉ đi nuôi trai mà thôi, mới lớn lên đã bị trai sỏ mũi dắt về nhà. Đi làm quần quật để nuôi thêm 4 thằng “tứ quý“, rồi khi gối mỏi còng lưng lại dấm dúi đem tiền mua bánh kẹo dụ dỗ mấy thằng cháu nội dễ thương. Hạnh phúc đấy! Cứu cánh của cuộc đời là thế đấy! Ma tôi đã làm tròn bổn phận đầy đủ rồi, không còn gì để chê trách cả. Thế nhé! Các bạn đã hài lòng chưa? Bây giờ chúng ta có thể cùng nhau phiếm luận vài hàng về thân người Nữ.

Từ thuở Đức Phật còn tại thế, một Đại đệ tử của Người trong số 10 vị Đại đệ tử, ông A Na Luật nhờ chứng Nhãn Thông nên nhìn suốt được tất cả thế giới. Khi nhìn xuống địa ngục thấy toàn phụ nữ phải chịu cực hình, sinh lòng thương cảm bèn thưa cùng Ngài:

- Bạch Đức Thế Tôn, người Nữ đã làm những tội lỗi gì mà phải bị đọa đày như thế!

Đức Phật giải thích rõ ràng:

- Này A Na Luật! Người Nữ có 3 tâm lớn hơn nam giới, mỗi buổi sáng thức giấc, tâm sân tham mong tất cả tài bảo trên thế gian đều vào mình, ban trưa tâm tật đố tăng lớn mạnh nên cho toàn thể nhân loại đều làm chướng ngại mình, xế chiều tâm dâm dục lẫy lừng lúc nào cũng mong có người dựa kề bên mình. Từ những tâm như thế dễ chiêu cảm sự phạm tội mà đọa địa ngục (*).

Đại biểu cho người Nữ có 3 tâm lớn hơn nam giới ấy là bà Eva, đã dụ dỗ chồng là ông Adam cùng ăn trái táo cấm để bị đuổi ra khỏi vườn Địa Đàng. Có lẽ người Nữ cũng biết thân biết phận nên đã cố gắng tu hành, cứ nhìn các tín nữ lễ bái sinh hoạt trong chùa vượt hẳn tỷ lệ của thiện nam. Đấy là chưa kể những trường hợp phải làm thân đàn bà tại các xứ Hồi Giáo, nhất là các xứ cực đoan như Taliban ở A Phú Hãn, xem như cả đời bị chiếc áo Burka nhốt tù. Ma tôi nếu có trở lại làm thân Nữ cũng phải lựa chọn kỹ càng nơi nào có Chánh Pháp mà đến, không thì uổng cả một đời vì được làm thân người rất khó.

Thật ra nếu được làm thân nam rồi đi Tu như các vị Cao Tăng trong chùa, ấy chẳng phải là nỗi niềm mơ ước to lớn của Ma tôi. Nhưng thực tế chỉ thấy các chàng tối ngày làm bạn với Lưu Linh uống như hũ chìm, ham mê cá độ hay ong bướm dập dìu. Nếu chàng nào tốt số hơn được thuộc diện khoa bảng bằng cấp đầy người, lại chui vào cái bát nạn thứ 7 là “Thế trí biện thông“, lúc nào cũng xem mình là nhất là cái rốn của vũ trụ. Nhưng chàng ơi, trí thức không phải là trí tuệ. Làm thân nam kiểu này hưởng hết phước báu rồi cũng rụng rơi, Ma tôi không thèm đâu! Thôi, chúng ta nên đi thẳng vào vấn đề chính đi, phải kể những gì chỉ người nữ làm được mà người nam chỉ đứng nhìn rồi giở mũ nghiêng mình. Ấy là thiên chức làm mẹ! Trong đấy chứa đựng sự nhẫn nhục và lòng từ vô biên với đứa con thân yêu của họ. Thượng đế cũng cho người nữ sức chịu đựng để vượt cạn một mình và nuôi con dạy dỗ đến khi thành tài.

Trong kinh Nikaya có kể lại một câu chuyện: Khi Vua Ba Tư Nặc, (ông vua bụng bự thích ăn cơm cà-ri và hay ngủ gục trong giờ Đức Thế Tôn thuyết Pháp), tới thăm Đức Thế Tôn và đang hàn huyên… thì có các quan hầu cận tới trình lên là Hoàng Hậu vừa hạ sanh một Công Chúa… làm Đức Vua sa sầm nét mặt. Đức Thế Tôn hỏi vì sao Vua không vui? Và cho một bài Pháp nhỏ, tuy là thân gái nhưng nếu là người con gái đức hạnh khi lấy chồng sẽ sanh ra những đứa con trai, nuôi dậy nên người và những đứa con ấy sẽ trở thành vua hay những người đạo đức thì quý hóa hơn là sanh con trai…

Cũng vì tinh thần trọng nam khinh nữ của Á Đông, khẩu hiệu mỗi gia đình chỉ có một con, khiến cho một số nước như Trung Hoa hay Ấn Độ, lâm vào tình trạng nan giải như hiện nay. Số đàn ông “gào hét tìm vợ“ ở Trung Hoa ít nhất cũng lên đến con số 40 triệu người, họ tìm cách kiếm vợ ở các nước láng giềng như Việt Nam hay bò sang tận cả Phi Châu. Thật đáng tiếc cho họ không được lấy những người đẹp Tô Châu, dáng vẻ yêu kiều, còn đâu những Tứ Đại Mỹ Nhân lừng danh kim cổ.

Tuy nhiên, trong tinh thần ấy cũng có những điều hay như phát sinh ra nhà thơ Hồ Dzếnh, bố người Tàu sang Việt Nam lập nghiệp rồi lấy vợ Việt để thi sĩ Cảm Xúc ra bài thơ tặng riêng cho hai người đàn bà mà ông trân quý nhất, đấy là hình ảnh của Mẹ và Chị:

Cô gái Việt Nam ơi!

Nếu chữ Hy Sinh có ở đời,

Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực.

Cho lòng cô gái Việt Nam tươi.

Ngày nay người phụ nữ rất thành công trong mọi lãnh vực, kể sao cho hết những bà tổng thống hay thủ tướng lừng danh. Một Mẹ Théresa hay Sư Bà Chứng Nghiêm của Đài Loan với những công trình từ thiện vĩ đại. Một dẫn chứng thật tối thượng và tuyệt vời là hình ảnh Mẹ Quán Thế Âm, dĩ nhiên Ngài là thân nam nhưng mang hình ảnh dịu dàng và xinh đẹp của người mẹ hiền để dễ tiếp cận với đàn con dại nhiều khổ đau.

Các bạn biết đấy! Làm thân Ma mà đi nhờ vả một người không cùng chung tần số với mình, nhờ họ tải dùm tư tưởng cho mình thật không dễ dàng chút nào. Mới viết có vài trang cô nàng thợ viết đã làm eo, quẳng luôn bài của Ma tôi vào xó cửa trong máy vi tính để viết bài tường thuật về các khóa tu lợi lạc hơn. Rồi cái đám bạn bè viết lách của Ả lại lời ra tiếng vào không cho viết về đề tài Chết, sợ nó vận vào người, bắt viết các đề tài trong sáng “thanh lương“ hơn. Suýt tí nữa là đứa con tinh thần của Ma tôi cũng đi đời nhà ma luôn. May sao không biết một phép lạ nào xảy ra khiến cô nàng lôi “cố nhân“ ra hì hục viết trối chết, làm Ma tôi không kịp bàn giao tư tưởng. Nhưng thôi kệ, dở hay gì cũng không đặt nặng, miễn sao Ma tôi truyền thông được những gì mình suy nghĩ từ lúc sống đến khi ra đi cởi chiếc áo cũ quẳng lại cho đời. Hành trang mang theo rất nhẹ, chỉ hai chữ Phước và Nghiệp mà thôi.



Hoa Lan.

Mùa xuân 2013.

(*) Thập Đại đệ tử - T. Tinh Vân - Dịch giả: Như Đức

co gai hoa sen

Cô gái và Hoa Sen - Hương Cau

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/10/2010(Xem: 2076)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 3308)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 2656)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
16/10/2010(Xem: 2814)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 2172)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2032)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 1857)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 2249)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 1702)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 3286)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567