Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

29. Tổ Huệ Khả

11/03/201409:50(Xem: 12589)
29. Tổ Huệ Khả

Tổ thứ hai Trung Hoa

29- Huệ Khả
(494 - 601 TL.)

(Trích trong “Sử 33 vị Tổ Thiền Tông Ấn-Hoa”,
Thích Thanh Từ soạn, 1972, trang 173-182)

Sư họ Cơ quê ở Võ Lao, dòng tôn thất nhà Chu. Cha mẹ Sư lớn tuổi không con, lắm phen đến chùa cầu con, sau mẹ có thai sanh ra Sư. Khi Sư lọt lòng mẹ, có hào quang lạ chiếu sáng trong nhà, nên đặt tên Sư là Quang.

Thuở bé, Sư học hết sách đời, rất thông Lão Trang. Năm ba mươi tuổi, Sư tự cảm than: “Lão, Dịch là sách thế gian chẳng tột được đại lý.” Sư bắt đầu xem kinh Phật.

Sư viễn du tìm thầy học đạo, đến Lạc Dương lên núi Hương Sơn chùa Long Môn gặp Thiền sư Bảo Tịnh bèn xin xuất gia. Sau đó, Sư đến chùa Vĩnh Mục thọ giới ở tại Phù Du Giảng Tứ. Sư chuyên học Kinh Luận, chưa bao lâu thảy được tinh thông.

Năm ba mươi hai tuổi, Sư trở về Bổn sư nơi Hương Sơn. Ở đây trọn ngày, Sư ngồi thiền quán trên núi. Trải tám năm như thế, một hôm khi Sư đang thiền định, bỗng có vị thần hiện ra thưa:

- Ngài không nên ở đây lâu, muốn được đạo quả hãy đi về phương Nam.

Hôm sau, trên đầu Sư chợt đau như kim châm không thể chịu được. Sư định đi tìm thuốc trị, chợt nghe trong hư không có tiếng nói: “Ðây là đổi xương, chẳng phải bệnh thường.” Sư đem việc này thuật lại thiền sư Bảo Tịnh. Bảo Tịnh ngăn không cho trị thuốc. Sáng hôm sau, Bảo Tịnh xem trên đầu Sư quả thấy đầu xương nổi cao như năm ngọn núi, bảo:

- Lạ thay! Ngươi có tướng tốt này ắt sẽ đắc đạo. Thần lại dạy ngươi sang miền Nam, ta nghe Ðại sĩ Bồ-đề-đạt-ma đến ở chùa Thiếu Lâm, chắc đó là thầy của ngươi vậy.

Nhân có thần mách bảo, nên Bổn sư Bảo Tịnh đổi hiệu Sư là Thần Quang.

Sư tìm đến chùa Thiếu Lâm yết kiến Tổ Bồ-đề-đạt-ma và được truyền tâm ấn. Sư ở đây cho đến lúc Tổ qui tịch. Sau đó, Sư sang Bắc Tề hoằng truyền chánh pháp.

Một hôm, Sư gặp một người cư sĩ trạc bốn mươi tuổi, chẳng nói tên họ, đến đảnh lễ Sư thưa:

- Ðệ tử mang bệnh ghẻ lở đầy mình xin Thầy từ bi vì đệ tử sám tội.

Sư bảo:

- Ðem tội ra, ta sẽ vì ngươi sám hối.

Ông cư sĩ đứng sững giây lâu thưa:

- Ðệ tử tìm tội không thể được.

- Ta đã vì ngươi sám hối rồi. Nhưng, ngươi nên nương tựa Phật Pháp Tăng.

- Hiện giờ đệ tử thấy Thầy đã biết được Tăng. Chẳng biết thế nào là Phật và Pháp?

- Tâm ấy là Phật, tâm ấy là Pháp. Phật Pháp không hai, ngươi có biết đó chăng?

- Nay đệ tử mới biết tánh tội không ở trong, ngoài, chặng giữa; như tội, tâm cũng vậy, thật Phật Pháp không hai.

Sư nghe nói rất hoan hỉ, cho cạo tóc xuất gia, bảo:

- Ngươi là vật báu của ta, nên đặt tên là Tăng Xán.

Ngày mười tám tháng ba niên hiệu Thiên Bình năm thứ hai (536 T.L.) Tăng Xán được thọ giới Cụ túc tại chùa Quang Phước. Từ đó, bệnh của ông lần lần thuyên giảm. Ông theo hầu thầy được hai năm.

Một hôm, Sư Huệ Khả gọi ông đến bảo:

- Tổ Bồ-đề-đạt-ma chẳng ngại xa xôi từ Ấn Ðộ sang, đem chánh pháp nhãn tạng truyền cho ta, nay ta trao lại cho ngươi cùng với y bát, ngươi khéo giữ gìn chớ để đoạn tuyệt. Nghe ta nói kệ:

Bản lai duyên hữu địa,
Nhân địa chúng hoa sanh.
Bản lai vô hữu chủng,
Hoa diệc bất tằng sanh.

Dịch:

Xưa nay nhân có đất,
Bởi đất giống hoa sanh.
Xưa nay không có giống,
Hoa cũng chẳng từng sanh.

Ðọc bài kệ xong Sư lại tiếp:

- Ngươi phải tìm nơi núi sâu ở ẩn, không nên đi giáo hóa sớm, trong nước sẽ có nạn.

Tăng Xán thưa:

- Thầy đã biết trước mọi việc, cúi xin từ bi dạy con rành rẽ.

- Ðây không phải tự ta nói, mà là lời huyền ký của Tổ Bát-nhã-đa-la do Tổ Ðạt-ma thuật lại cho ta nghe: Sau khi Tổ nhập Niết-bàn một trăm năm mươi năm sẽ có những việc xảy ra như bài kệ này:

Tâm trung tuy kiết ngoại đầu hung,
Xuyên hạ tăng phòng danh bất trung.
Vi ngộ độc long sanh võ tử,
Hốt phùng tiểu thử tịch vô cùng.

Dịch:

Trong tâm tuy kiết ngoài đầu hung,
Ðất Xuyên phòng tăng tên chẳng trúng.
Vì gặp độc long sanh con võ,
Chợt nghe chuột nhỏ lặng vô cùng.

Xét về niên số nhằm đời của ngươi, ngươi cố gắng gìn giữ. Ta cũng có cái nợ ngày trước nay cần phải trả.

Sư sang xứ Nghiệp Ðô tùy nghi giáo hóa thuyết pháp độ sanh ngót ba mươi bốn năm.

Lúc đó, có một văn sĩ nổi tiếng là thần đồng tên Mã Tăng Na. Năm hai mươi mốt tuổi, ông đã giảng được sách Lễ, kinh Dịch tại miền Ðông Hải, thính giả đến nghe đông như chợ. Một phen gặp Sư, Tăng Na liền xin xuất gia đầu Phật. Từ đây về sau, ông tay chẳng cầm đến cây viết, bỏ hết sách thế gian, chỉ một y một bát, một tọa cụ, ngày ăn một bữa, dưới gốc cây ngủ một lần, chuyên tu hạnh đầu-đà.

Lại, có ông cư sĩ Hướng là nhà văn uyên bác chẳng màng đến bả công danh, tánh thích rừng sâu quê vắng, đói ăn lá cây, khát uống nước giếng, làm bạn với nước biếc non xanh, để di dưỡng tinh thần. Nghe Sư hoằng hóa ở Bắc Tề, ông biên thơ đến hỏi, thơ viết:

Bạch Thầy,

Theo thiển ý của tôi, người đời cảnh tạm, công danh phú quí như lùm mây nổi, lạch biển cồn dâu, đài các phong lưu như hòn bọt nước. Có cái gì là chân thật, đáng để ta quí trọng.

Vì bởi bóng do hình mà có, vang theo tiếng mà sanh, đuổi bóng nhọc hình, chẳng biết hình là gốc của bóng, to tiếng để ngăn vang, đâu biết tiếng là cội của vang. Trừ phiền não mà thú hướng Niết-bàn, dụ bỏ hình mà tìm bóng, lìa chúng sanh mà cầu Phật quả, dụ im tiếng mà tìm vang.

Cho nên biết, mê ngộ một đường, ngu trí chẳng khác, không tên mà đặt tên, nhân tên đó mà có thị phi. Không lý mà tạo thành lý, nhân lý đó mà khởi tranh luận. Huyễn hóa chẳng phải chân, thì cái gì phải? Cái gì quấy? Hư vọng chẳng thật, thì cái gì không? Cái gì có?

Muốn đem cái biết “được mà không chỗ được, mất mà không chỗ mất” trình với Thầy mà chưa có dịp gặp. Nay thố lộ ý này, mong Thầy từ bi đáp cho.

Sư đáp thơ:

Bị quán lai ý giai như thật,
Chân u chi lý cảnh bất thù.
Bản mê ma-ni vị ngõa lịch,
Hoát nhiên tự giác thị chân châu.
Vô minh trí tuệ đẳng vô dị,
Ðương tri vạn pháp tất giai như.
Mẫn thị nhị kiến chi đồ bối,
Thân từ tá bút tác tư thơ.
Quán thân dữ Phật bất sai biệt,
Hà tu cánh mích bỉ vô dư?

Dịch:

Ông cư sĩ Hướng,
Xem rõ ý ông gởi đến đây,
Ðối lý chân u có khác gì.
Mê bảo ma-ni là ngói gạch,
Bỗng nhiên giác ngộ biết chân châu.
Vô minh trí tuệ đồng chẳng khác,
Muôn pháp đều như, phải liễu tri.
Thương kẻ chấp thường và chấp đoạn,
Bày lời mượn bút viết thơ này.
Quán thân với Phật không sai khác,
Nhọc gì tìm kiếm Niết-bàn chi?

Ông cư sĩ Hướng được thơ Sư, đọc xong, ông tìm đến đảnh lễ và thọ nhận ấn ký.

Sau này, Sư đổi đạo phục, giả dạng thế gian, có khi vào quán rượu, hoặc lúc đến hàng thịt, hoặc ở giữa đám đông thuyết pháp, hoặc làm người khuân vác v.v...

Có người biết hỏi Sư:

- Thầy là nhà tu, tại sao làm như thế?

Sư đáp:

- Ta tự điều phục tâm, đâu có quan hệ gì đến việc của ngươi.

Sư đến huyện Quản Thành, ở trước tam quan chùa Khuôn Cứu diễn nói đạo vô thượng. Nhằm lúc ông trụ trì là pháp sư Biện Hòa đang giảng kinh Niết-bàn, thính giả bên trong từ từ rút lần ra nghe Sư diễn hóa. Ông Biện Hòa bực tức mới đi cáo gian với quan Ấp Tể tên Ðịch Trọng Khản rằng “Sư giảng tà thuyết làm việc phi pháp”.

Ðịch Trọng Khản không biết nhận xét, cứ nghe bướng liền bắt Sư gia hình. Sư không đối khán vẫn mặc nhiên thừa nhận để trả nợ trước cho xong. Ngay lúc gia hình, Sư thị tịch nhằm niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười ba nhà Tùy (601 T.L.). Sư hưởng thọ được một trăm lẻ bảy tuổi.

Thiện tín thương xót đem di thể của Sư về chôn ở Từ Châu phía đông bắc huyện Phú Dương.

Ðến đời vua Ðức Tông nhà Ðường truy phong ÐẠI TỔ THIỀN SƯ.

PHẦN PHỤ:

1- Sư Mã Tăng Na sau có đệ tử hiệu là Huệ Mãn. Sư bảo Huệ Mãn:

- Tâm ấn của Tổ sư chẳng phải chuyện khổ hạnh, khổ hạnh chỉ là giúp đạo mà thôi. Nếu người khế được Bản tâm, phát cái dụng tùy ý chân quang, thì khổ hạnh như nắm đất thành vàng. Nếu người chỉ chú trọng khổ hạnh mà không rõ Bản tâm, lại yêu ghét trói buộc thì khổ hạnh như đêm ba mươi đi trong đường hiểm.

Ngươi muốn rõ được Bản tâm, phải suy cùng xét cạn, khi gặp sắc gặp thanh mà chưa khởi suy nghĩ, tâm ở chỗ nào? Là không chăng? Là có chăng? Ðã chẳng rơi vào chỗ có không, thì tâm chân tự sáng thường chiếu thế gian, chưa có một mảy bụi làm gián cách, chưa từng có tướng khoảng sát-na đứt nối.

Huệ Mãn sau cũng hành hạnh đầu-đà.

2- Thiền sư Hạo Nguyệt hỏi Thiền sư Trường Sa Cảnh Sầm rằng:

- Cổ đức nói: “Liễu tức nghiệp chướng bản lai không, vị liễu ưng tu thường túctrái.”(1). Như Tổ Sư Tử và Tổ Huệ Khả vì sao lại đền nợ trước?

Trường Sa bảo:

- Ðại đức chẳng biết bản lai không.

Hạo Nguyệt hỏi:

- Thế nào là bản lai không?

- Nghiệp chướng.

- Thế nào là nghiệp chướng?

- Bản lai không.

Hạo Nguyệt lặng thinh.

Trường Sa dùng kệ chỉ bày:

Giả hữu nguyên phi hữu,
Giả diệt diệc phi vô.
Niết-bàn thường trái nghĩa,
Nhất tánh cánh phi thù.

Dịch:

Giả có vốn chẳng có,
Giả diệt cũng chẳng không.

Nghĩa Niết-bàn, đền nợ,
Một tánh lại nào hai.


(1)Hai câu này trích trong “Chứng Đạo Ca” của Thiền sư Huyền Giác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2019(Xem: 5100)
Quê quán tôi ở tận làng Nguyệt Biều, ngoại ô thành phố Huế, nơi nổi tiếng có những vườn thanh trà xanh um, trái ngọt. Hơn 50 năm trên đất Việt, tôi đã sống hơn 30 năm trên đất Huế, uống nước sông Hương hai mùa mưa nắng, ăn cơm gạo de An Cựu. Mùa hè tắm biển Thuận An, mùa xuân ngắm hoa đào trên chùa Từ Hiếu, mùa đông vẫn dầm mưa qua đò Thừa Phủ; chưa kể tiếng thông reo trên đồi Thiên An, tiếng ve sầu rả rích trên các tàng cây dọc con đường vào Thành Nội. Còn nữa, màu hồng, màu trắng của hoa sen hồ Tịnh Tâm, màu đỏ rực của phượng vĩ mùa hè. Tôi là dân Huế chính cống, Huế chay, “mô - tê - răng - rứa “ tôi nói không sai một chữ. Cũng có thể máu huyết tôi thấm đậm hương vị quýt Hương Cần, thanh trà, nhãn lồng Nguyệt Biều, mít Kim Long, dâu Truồi ngọt lịm...
21/10/2019(Xem: 3889)
Hans Christian Andersen là một nhà văn nổi tiếng của Đan Mạch, hay nói đúng hơn là của tuổi thơ. Ông sinh ngày 2 tháng 4 năm 1805 và mất ngày 4 tháng 8 năm 1875, thọ 70 tuổi. Đa phần tên Ông được viết tắt là H.C.Andersen, có lẽ để cho người ta dễ đọc và dễ nhớ, nhất là cho trẻ em. Ngày Ông sinh ra tính cho đến nay ở đầu thế kỷ thứ 21 nầy cũng đã trên 200 năm rồi. Ngày ấy Odense vẫn là một ốc đảo của Đan Mạch, nằm giữa những đảo lớn, có thủ đô Copenhagen và vùng Kolding. Từ Kolding hay Copenhagen muốn đến Odense đều phải đi ngang hai chiếc cầu dài nhất nhì tại Âu Châu và những chiếc cầu nầy cũng chỉ mới được xây dựng vào thế kỷ thứ 20, chứ trước đó thì chắc rằng người ta phải đi ngựa và đi thuyền mới đến được những nơi nào người ta muốn đến của hai mảnh đất liền nằm hai bên ốc đảo Odense nầy.
05/10/2019(Xem: 5685)
Một ông tăng tu Thiền tới hỏi hòa thượng: -Xin hòa thượng cho một câu ngắn gọn “Phật Là Gì?” để con tỏ ngộ và giảng dạy cho đại chúng. Hòa thượng đáp: - Phật là cơm.
29/09/2019(Xem: 28233)
Video: Hành Trình Khám Phá về Sự Thật Xá Lợi của Đức Phật (Rất hay, rất cảm động khi xem, quý vị nên tranh thủ vào xem liền, chân thành cảm ơn nhà văn, nhà khảo cô người Anh Charles Allen đã thực hiện cuốn phim tài liệu công phu và độc nhất vô nhị để tôn vinh và tìm ra sự thật về xá lợi của Đức Thế Tôn sau 26 thế kỷ, from Thích Nguyên Tạng, chủ biên trang nhà Quảng Đức)
26/09/2019(Xem: 6292)
Vừa tang tảng sớm, sương mai còn đọng trên đầu những ngọn cỏ xanh non, một người phụ nữ trạc tuổi bốn mươi, khoác áo bà ba nâu giản dị, đã đến trước ngõ cây tùng của am lá , tên dân dã thường gọi am Không Cửa … Bà không cần gọi am chủ mà đã tự động hé cánh cửa tùng hờ hửng mở, thư thả đi những bước chân nhẹ nhàng vào đến tận cửa am. Bà cất tiếng gọi :
11/09/2019(Xem: 4582)
Một câu chuyện có thật. Tại một thành phố ở Ấn Độ, vị thương gia mất cả ngày trời thương thảo với đối tác. Mệt mỏi, ông vào một nhà hàng sang trọng, tự thưởng cho mình bữa tối thịnh soạn.
03/09/2019(Xem: 3550)
Một đêm khi Shichiri Kojun đang tụng kinh thì một tên trộm với một thanh kiếm sắc nhọn bước vào, đòi đưa tiền nếu không ông sẽ mất mạng.
21/08/2019(Xem: 8846)
Một đoàn đông toàn thương gia Dự trù vượt biển đi xa buôn hàng Tìm đường sinh sống lang thang Lộ trình đoàn phải băng ngang cánh đồng
14/08/2019(Xem: 3856)
Sư cô Trăng Hiền Tâm, xuất gia trong gia đình cây Dẻ Gai ngày 25 tháng 10 năm 2018, tại Làng Mai – Pháp. Là con một, lớn lên trong một gia đình khá yên ấm tại Hàn Quốc và đang trên đường xây dựng sự nghiệp vững vàng, sư cô đã gặp được con đường tâm linh và phát tâm xuất gia mạnh mẽ. Hiện nay, sư cô đang tu tập ở xóm Mới và là niềm vui cho tất cả mọi người. Dưới đây là những chia sẻ của sư cô về hành trình tâm linh của mình, được Ban biên tập chuyển ngữ từ tiếng Anh
13/08/2019(Xem: 6443)
Một người từ 2500 năm trước vẫn còn sống chốn nhân gian, bạn có tin không? Nhưng càng kỳ lạ là, cách đây không lâu, một tiến sỹ người Anh tên là Beckson đã gặp tôn giả Ca Diếp trên núi Kê Túc, hơn nữa ông còn vì thế mà đã quy y Phật giáo. Đó là vào buổi sáng ngày đầu tiên hội nghị hàng năm của Hội nghiên cứu học thuật London vào đầu thế kỷ 20, rất nhiều tiến sỹ nổi tiếng nước Anh nghiên cứu khoa học, triết học, pháp học và thần học đã tấp nập đến trung tâm nghiên cứu, sẵn sàng thuyết trình. Người khiến mọi người chú ý là một vị hòa thượng phương Tây, thân hình cao lớn, mặc bộ tăng y màu vàng, ngoài khoác áo cà sa, tay cầm chiếc bát đen, chân trần, cử chỉ trang trọng, bước về phía tòa nhà tráng lệ của Hội nghiên cứu học thuật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]