Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

59. Đại cương tu Phật

02/03/201422:01(Xem: 19470)
59. Đại cương tu Phật
phatthichca2

Sự Tích Đức Phật Thích Ca
Soạn giả : Minh Thiện Trần Hữu Danh

(Ấn bản 09/2010, có hiệu chính và bổ túc)

7- Đại cương tu Phật :

3 tông phái lớn trong đạo Phật

1- Thiền tông: Hiện nay Thiền tông có hai dòng chánh là Như Lai Thiềncủa Nam tông và Tổ Sư Thiềncủa Bắc tông. Pháp môn Thiền được gọi là Thiền-na (Jhàna, Dhyàna), còn có thể gọi là Thiền (Zen); Trung Hoa dịch là Tĩnh-lự, nghĩa là yên lặng suy nghĩ. Thiền có hai phần chính là Chỉ (Samatha)Quán (Vipassanà). Nếu đi vào chi tiết thực hành thì có 6 phần là Sổ, Tùy, Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh, gọi là Lục Diệu Pháp Môn.

a)- Như Lai Thiềncủa Phật Giáo Nguyên Thủy là phương pháp thiền theo như đức Phật đã học, thực hành và giảng dạy. Như Lai Thiền giúp hành giả diệt trừ 5 triền cái (tham, sân, hôn trầm, trạo cử, hoài nghi), thực tập 5 thiền chi (tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm), rồi tiến tu từng cấp bậc từ Sơ-thiền đến Diệt-thọ-tưởng.

Người tu theo Như Lai Thiền thường thực hành các pháp môn :

Sổ tức(Ànàpàna-sati) : Tập trung ý-thức vào việc đếm hơi thở ra vào. Pháp môn này giúp thân tâm thanh tịnh.

Tùy tức(Ànàpàna-sati) : Tập trung ý-thức theo dõi hơi thở ra vào tự nhiên. Pháp môn này giúp thân tâm an lạc.

Chỉ hay Thiền vắng lặng(Samatha) : Thực hành định tâm bằng cách tập-trung tinh thần vào một nơitrên cơ thể như đỉnh đầu, tam tinh, chóp mũi, tim, rốn, lòng bàn tay ... Pháp môn này nhằm phát triển định lực.

Quán hay Thiền minh sát(Vipassanà) : Trừ vọng tưởng và phiền não trong tâm bằng cách quán sátđể thấy rõ sự sanh trụ dị diệt của một vật hay một hiện-tượng tâm-lý, để thấy rõ thật tướng, thật tánh, thật thể của nó, để thấy rõ vạn vật đều vô thường, vô ngã, vắng lặng. Pháp môn này nhằm phát triển trí tuệ.

Thiền ngoại định(Kasina) : Tập trung hoàn toàn tinh thần vào một đối tượng bên ngoàinhư đất, nước, gió, lửa, màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng, bầu trời hay không gian, ánh sáng hay trí tuệ (có 10 đối tượng quán) cho đến khi đối tượng đó trở thành một định tướng (nimitta), khi nhắm mắt lại vẫn thấy lờ mờ hình ảnh vật đó, đó là sơ tướng (parikamma nimitta). Lần hồi hình ảnh đó hiện rõ ràng hơn, đó là học tướng (uggaha nimitta). Cho đến khi hình ảnh đó sáng tỏ và loan rộng cùng khắp mọi nơi, đó là tợ tướng (patibhaga nimitta). Quán biết rằng tất cả mọi vật đều chu biến khắp pháp giới. Pháp môn này làm tăng trưởng định lực (upacara-samàdhi), giúp thiền giả diệt trừ sáu thức, đạt đến tứ thiền và ngũ thông. (Xem Vocabulaire Pali-Français des Termes Bouddhiques, trang 101-102; Buddhist Legends, quyển 1, trang 21-22).

b)- Tổ Sư Thiềncủa Phật Giáo Đại Thừa bắt đầu từ Sơ Tổ Bodhidharma (Bồ Đề Đạt Ma) tại Trung Hoa. Ngài chủ trương :

"Giáo ngoại biệt truyền,

"Bất lập văn tự,

"Trực chỉ nhân Tâm,

"Kiến tánh thành Phật.

Muốn tu pháp môn này cần phải thọ giáo với một Thiền sư đã chứng đắc, thường hướng dẫn thiền sinh bằng những phương pháp đặc biệt như la hét, đánh đập, bắt quét lá ..., hoặc bằng một cử chỉ hoặc lời nói ngắn gọn gọi là công án hay thoại đầu, nhằm kích khởi trực giác nằm sâu trong tâm thức của thiền sinh, giúp thiền sinh trực nhận Chân lý. Tổ Sư Thiền thường khơi động một mối nghi (nghi-tình) sâu đậm trong tâm thức của thiền sinh, làm cho thiền sinh phải thao thức mãi với mối nghi đó (để trừ vọng tưởng và phiền não); đến khi tâm thức của thiền sinh đã chín muồi, ông Thầy chỉ cần phát hiện một động tác hay một lời nói cũng đủ làm cho thiền sinh bừng ngộ (kiến tánh).

2- Mật tông: Thực hành các pháp môn :

Thần chú (Mantra): Thường đọc thần chú (mật ngữ) để giữ tâm thanh tịnh.

Mật ấn (Mudra): Thực hành những tư thế đặc biệt của hai tay (bắt ấn), vừa đọc thần chú, vừa nghĩ tưởng đến các vị Phật hay Bồ tát, để thân miệng ý hợp nhất trong đại định Kim Cang.

Thiền ngoại định (Kasina): Như đã giảng ở phần Thiền tông.

3- Tịnh Độ tông: Thực hành Tín thâm, Nguyện thiết, Hành chuyên, bằng các pháp môn :

Niệm Phật (Buddhanussati): Miệng niệm Phật A Di Đà, tay lần chuỗi, tâm quán tưởng Phật A Di Đà và nguyện thác sanh về cõi Tịnh Độ.

Niệm Pháp (Dhammanussati): Thường đọc tụng kinh Vô Lượng Thọ Phật, kinh Quán Phật Vô Lượng Thọ và kinh A Di Đà.

Niệm Tăng (Sanghanussati): Thường cung kính cúng dường chư Tăng Ni để gieo nhân lành, tăng trưởng phước đức.

37 pháp tu căn bản

(37 phẩm trợ đạo, bodhipakkhika dhamma)

4 đề tài thiền quán(Tứ Niệm Xứ) :

1- Thân bất tịnh: Quán chiếu 32 thành phần của cơ thể, 9 giai đoạn tàn hoại của cơ thể, để thấy rõ thân người đầy chất dơ bẩn, hôi thúi, không có gì đáng quý trọng. Pháp môn này nhằm trừ tham dục, trừ chấp thân là ngã, trừ ngã ái.

2- Thọ là khổ: Quán chiếu để thấy rằng mọi cảm giác sướng, khổ, hoặc không sướng không khổ, rốt cuộc cũng đều làm phát sanh phiền não và đau khổ không nhiều thì ít. Pháp môn này nhằm trừ tham, ái và thủ.

3- Tâm vô thường: Quán chiếu để thấy rằng tâm con người luôn luôn biến chuyển, khi vui khi buồn, khi hòa khi giận, không có gì là thường tại. Pháp môn này nhằm trừ chấp tâm là ngã, là trường tồn.

4- Pháp vô ngã: Quán chiếu để thấy rằng tất cả mọi sự vật đều vô thường, biến đổi luôn theo các chu kỳ thành trụ hoại không, không có yếu tố nào là thường tại gọi là ngã để có thể nắm giữ được. Pháp môn này nhằm mở mang trí tuệ và trừ lòng ham muốn.

4 điều phải siêng năng thực hành(Tứ Chánh Cần) :

1- Năng làm xuất hiện các pháp lành chưa sanh.

2- Năng làm lớn mạnh các pháp lành đã sanh.

3- Năng diệt trừ các pháp ác đã sanh.

4- Năng ngăn chận các pháp ác chưa sanh.

4 điều cần thực hiện đầy đủ, đến nơi đến chốn(Tứ Như Ý Túc) :

1- Dục như ý túc: Muốn làm điều lành, trừ điều ác thì hãy làm cho đến nơi đến chốn.

2- Niệm như ý túc: Ghi nhớ Chánh Pháp một cách đúng đắn và đầy đủ.

3- Tinh tấn như ý túc: Siêng năng tu tập cho đến nơi đến chốn.

4- Tư duy như ý túc: Suy nghĩ về điều gì cũng phải suy nghĩ cho đến nơi đến chốn.

5 căn lành cần nuôi dưỡng(Ngũ Căn) :

1- Tín căn: Kính tin Tam Bảo và Chánh Pháp.

2- Tấn căn: Tinh tấn tu tập pháp môn đã chọn.

3- Niệm căn: Luôn luôn nhớ nghĩ đến Chánh Pháp và Tam Bảo.

4- Định căn: Thực hành Thiền Vắng Lặng để tâm không loạn động.

5- Tuệ căn: Thực hành Thiền Minh Sát để biết rõ Chơn Tâm, Chơn Lý.

5 sức mạnh trong việc tu tập(Ngũ Lực) :

Khi nuôi dưỡng đúng mức, 5 căn lành sẽ trở thành 5 sức mạnh trong việc tu tập.

1- Tín lực: Sức mạnh của đức tin sau khi đã hiểu rõ.

2- Tấn lực: Sức mạnh của ý chí tinh tấn tu tập.

3- Niệm lực: Sức mạnh của trí nhớ Chánh Pháp.

4- Định lực: Sức mạnh của tâm thiền định.

5- Tuệ lực: Sức mạnh của trí tuệ bát-nhã.

7 giai đoạn tu hành(Thất Giác Chi) :

1- Niệm: Học hỏi giáo lý để ghi nhớ Chánh Pháp và các pháp môn tu liên hệ đến viễn ly, ly tham, đoạn diệt, hướng đến từ bỏ.

2- Trạch pháp: Sáng suốt chọn lựa pháp môn tu tập hợp với khả năng mình. Biết các pháp liên hệ đến viễn ly, ly tham, đoạn diệt, hướng đến từ bỏ là nên làm. Biết các pháp làm sanh trưởng tham, sân, hôn trầm, trạo cử, hoài nghi là phải dứt trừ.

3- Tinh tấn: Siêng năng tu tập pháp môn đã chọn.

4- Hỷ: Khởi tâm vui mừng nhận thấy việc tu tập có kết quả tốt đẹp.

5- Khinh an: Tâm vui vẻ, nhẹ nhàng, an ổn.

6- Định: Tu thiền định, tâm không tán loạn.

7- Xả: Tu xả, giữ tâm thanh tịnh, vắng lặng, bình đẳng, không chấp trước.

8 thánh đạo(Bát Chánh Đạo, hay Bát Thánh Đạo) :

1- Chánh kiến: Nhận thức chân chánh để biết rõ vạn vật đều vô thường và vô ngã, biết đời sống dẫy đầy đau khổ, biết vô minh và tham ái là nguyên nhân của khổ, phá vô minh trừ tham ái thì có được đời sống an lành hạnh phúc, biết các việc thiện nên làm và các việc ác nên tránh, biết Chánh Pháp là phương pháp phá vô minh trừ tham ái để được an lạc thanh tịnh.

2- Chánh tư duy: Suy nghĩ chân chánh để hiểu rõ Tứ Diệu Đế và 12 Nhân Duyên. tìm cách diệt khổ cho mình và cho mọi người, để mang đến hạnh phúc chân thật cho mình và cho mọi người.

3- Chánh ngữ: Nói lời hòa nhã, đúng sự thật, đúng Chánh Pháp, để mang đến hạnh phúc cho mọi người.

4- Chánh nghiệp: Hành động đúng Chánh Pháp, lợi mình lợi người; giữ cho ba nghiệp thân khẩu ý được thanh tịnh.

5- Chánh mạng: Hành nghề sinh sống đúng Chánh Pháp, lợi mình lợi người; tránh sát sanh, buôn bán ma túy hay vũ khí, sang đoạt của người.

6- Chánh tinh tấn: Siêng năng tu tập theo Chánh Pháp, làm điều lành, tránh điều ác.

7- Chánh niệm: Tâm thâm nhập Chánh Pháp, luôn luôn ghi nhớ các điều lành nên làm, nhớ các điều ác nên tránh.

8- Chánh định: An trú trong Chánh Pháp, siêng năng tu tập thiền định, tránh loạn tưởng, loạn động.

Tu 8 Thánh đạo đưa đến 4 Thánh quả như sau :

Tu-đà-hoàn(Sotàpatti): Thành đạt Chánh kiến và Chánh tư-duy. Đã đoạn trừ ba kiết sử là thân kiến, giới cấm thủ và hoài nghi.

Tư-đà-hàm(Sakadàgàmi): Thành đạt Chánh ngữ và Chánh nghiệp. Đã đoạn trừ ba kiết sử là thân kiến, giới cấm thủ, hoài nghi và đã giảm nhẹ tham, sân, si.

A-na-hàm(Anàgàmi): Thành đạt Chánh mạng và Chánh tinh tấn. Đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử là tham, sân, thân kiến, giới cấm thủ, hoài nghi.

A-la-hán(Arahattà): Thành đạt Chánh niệm và Chánh định. Đã đoạn trừ năm thượng phần kiết sử là sắc ái, vô sắc ái, trạo cử, ngã mạn, vô minh. Được hoàn toàn giải thoát khỏi sanh tử luân hồi.

6 pháp tu của Bồ tát

(Lục độ hay 6 Ba-la-mật)

1- Bố thí: Các vị Bồ tát đã biết rõ tất cả sự vật đều vô thường và vô ngã nên nguyện thực hành bố thí rốt ráo đến khi không còn thấy có gì là mình hay của mình nữa. Bố thí là Không Chấp Có.

2- Trì giới: Các vị Bồ tát nguyện thực hành 3 Tụ Giới đại thừa là đoạn trừ tất cả các điều ác, thực hành tất cả các điều lành, nhiếp độ tất cả chúng sanh. Trì giới là giữ thân, khẩu, ý thanh tịnh.

3- Nhẫn nhục: Các vị Bồ tát nguyện thực hành tâm bình đẳng, tận diệt ngã mạn và sân hận, được tâm nhẫn nhục tam muội. Nhẫn nhục là Không Chấp Ngã.

4- Tinh tấn: Các vị Bồ tát nguyện suốt đời siêng năng thực hành 5 pháp môn bố thí, trì giới, nhẫn nhục, thiền định và trí tuệ. Tinh tấn là Không Chấp Không.

5-Thiền định: Các vị Bồ tát nguyện đoạn trừ tất cả phiền não và vọng tưởng, tu rốt ráo căn viên thông, đến khi tâm được hoàn toàn thanh tịnh. Thiền định là tâm bình đẳng Không Phân Biệt.

6- Trí tuệ: Các vị Bồ tát nguyện thực hành Thiền minh sát đến khi rốt ráo đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trí tuệ là biết tất cả mà Không Vướng Mắc.

Tu Lục độ đưa đến các quả vị như sau :

Thập Tín: Thấm nhuần hạnh Bố thí.

Thập Trụ: Thấm nhuần hạnh Trì giới.

Thập Hạnh: Thấm nhuần hạnh Nhẫn nhục.

Thập Hồi-hướng: Thấm nhuần hạnh Tinh tấn.

Tứ Gia-hạnh: Thấm nhuần hạnh Thiền định.

Thập Địa: Trí tuệ phát sáng.

4 pháp tu của Đại Bồ tát

(4 tâm vô lượng)

1- Từ (mettà, maitrya): Sẵn sàng ban vui cho tất cả chúng sanh.

2- Bi (karunà): Sẵn sàng cứu khổ cho tất cả chúng sanh.

3- Hỷ (mudità): Vui khi thấy chúng sanh hết khổ được vui.

4- Xả (upekkhà): Tâm luôn luôn an lạc, thanh tịnh, bình đẳng, không phân biệt, không cố chấp.

Từ Bi Hỷ Xả là tâm rộng lớn vô biên của bậc Thánh nhân đã chứng được vô ngã nên cảm thông với tất cả tâm trạng khổ vui của chúng sanh. Tâm luôn luôn an lạc, thanh tịnh, bình đẳng, tùy duyên hoá độ chúng sanh mà không hề thấy có người độ và chúng sanh được độ.

Từ Bi Hỷ Xả là Chơn Tâm thường, lạc, ngã, tịnh.

Từ Bi Hỷ Xả là Niết Bàn an lạc, thanh tịnh của tất cả muôn loài.


Thứ lớp tu chứng trong đạo Phật

Các cảnh giới theo đạo Phật[1]

(25 cõi luân hồi)

Cõi Dục (Kàmaloka):

1- Địa ngục (Niraya)

- Ngạ quỷ (Peta yoni)

- Súc sanh (Tiracchana yoni)

2 - Người (Manussa)

3- A-tu-la (Asura yoni)

4- Tứ Đại Thiên Vương (Càtum-mahà-ràjika)

5- Đao Lợi thiên (Tàvatimsa)

6- Dạ-ma thiên (Yama)

7- Đâu Suất-đà thiên (Tusita)

8- Hóa lạc thiên (Nimmanarati)

9- Tha-hóa-tự tại thiên (Paranimmitavàsavatti)

Cõi Sắc (Rùpaloka):

Sơ thiền: 10- Phạm Chúng Thiên (Brahmà Parisajja)

11- Phạm Phụ Thiên (Brahmà Purohita)

12- Đại Phạm Thiên (Mahà Brahmà)

Nhị thiền: 13- Thiểu Quang Thiên (Parittabha)

14- Vô Lượng Quang Thiên (Appamanabha)

15- Quang Âm Thiên (Abhassara)

Tam thiền: 16- Thiểu Tịnh Thiên (Parittasubha)

17- Vô Lượng Tịnh Thiên (Appamanasubha)

18- Biến Tịnh Thiên (Subhakinha)

Tứ thiền: 19- Quảng Quả Thiên (Vehapphala)

20- Vô Tưởng Thiên (Asanna)

21- Tịnh Cư Thiên (Suddhàvàsa) :

- Vô Nhiệt Thiên (Atapa)

- Vô Phiền Thiên (Aviha)

- Thiện Hiện Thiên (Sudassa)

- Thiện Kiến Thiên (Sudassana)

- Sắc Cứu Cánh Thiên (Akanittha)

Cõi Vô Sắc (Arùpaloka):

22- Không Vô Biên Xứ Thiên (Akasanansa-yatana)

23- Thức Vô Biên Xứ Thiên (Vinnànanca-yatana)

24- Vô Sở Hữu Xứ Thiên (Akincanna-yatana)

25- Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên (N'eva sanna nasanna yatana)

Cõi Niết bàn (Mahà-pari-nibbàna):

Là cõi Phật, cõi Diệt Thọ Tưởng Định (Nirodha-Samàpatti), ở khắp mọi nơi.

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo.



[1]Xem Tăng Chi Bộ, chương 9 pháp, kinh 24: Các loài Hữu tình; chương 3 pháp, kinh 70: Các lễ Uposatha.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/09/2013(Xem: 3520)
Từ xưa đến nay đã có biết bao nhiêu áng văn tuyệt tác, bao nhiêu bài thơ trữ tình, bao nhiêu ca khúc vinh danh người Mẹ, trong đó bài hát “Lòng Mẹ“ của Y-Vân đã trở thành bất hủ, mỗi lần nghe là mỗi lần cảm thấy xúc động cả tâm can! Riêng tôi, tôi lại muốn viết để ca ngợi người Cô ruột của tôi, cô là hình ảnh của người mẹ thứ hai, dù đã không sinh ra tôi. Mới một tuổi tôi đã mất mẹ, trong khi đó hai anh trai tôi cũng chỉ mới lên bốn và lên hai. Câu nói của ai đó cùng nghe càng thấm thía vô cùng: „Ngày ta đau khổ nhất là ngày ta mất mẹ, lúc ấy ta khóc mà không có mẹ bên cạnh để dỗ dành“.
20/09/2013(Xem: 8169)
Bà Tám( bước ra sân khấu, than): Trời ơi là trời! Cho mượn rồi lại cho mượn, mượn “woài“ không chịu trả, này trời!. Bà con nghĩ có ức cho tôi không. Nhìn cái mặt tôi nè, tôi hiền…khô hà. Nhân từ, đạo đức, tử tế, đàng hoàng nổi tiếng. Hồi đi học tôi được mệnh danh là, em… hiền như ma…cô, à không, hiền như ma…sơ. Bởi hiền hậu nhân đức nên tôi mới chọn cho mình cái nghề thiệt là cao quí: cho vay lấy lãi.Cho mượn 100 lấy lời có 50 mỗi tháng, nhiều… nhít gì mà…đứa nào vay cũng quịt cả lời lẫn vốn của tôi. Được rồi, lần này tôi không thể hiền nữa đâu, hiền quá chúng lờn mặt hà.Tôi phải tới nhà thằng Tư…xiết đồ nó mới đã nư giận!( nói xong ngoe nguẩy đi vô )
20/09/2013(Xem: 11184)
Thị Mầu (một tay cầm giỏ hoa, một tay cầm dù, ỏn ẻn bước ra): Dạ, Thị Mầu xin kính chào ông Đạo! Ông Đạo: Nam Mô A Di Đà Phật. Thị Mầu: Ông Đạo ơi, ông Đạo nè. Hôm nay Thị Mầu đến chùa, trước là có ít hương hoa lễ Phật, Thị Mầu để tạm đây nghe ông Đạo, sau là muốn thăm ông Đạo. Ông Đạo có khoẻ không ông Đạo?
19/09/2013(Xem: 13318)
Chẳng là một tối nọ tình cờ tôi xem được đoạn phim Nghịch Duyên của hãng phim Mã Lai, tả một câu truyện có thật xảy ra tại Trung Quốc từ thời xa xưa nào đó. Nhân vật chính chỉ có hai người là Chàng và Nàng, hay anh Chồng và chị Vợ, họ lấy nhau đã lâu nhưng không có con. Vợ chồng sống khá hạnh phúc với nghề bán rau cải tươi ngoài chợ. Cho đến một hôm chị Vợ nghe được một bài Pháp của một vị Hòa Thượng giảng về công năng của câu Niệm Phật sẽ được vãng sanh.
17/09/2013(Xem: 6683)
Dọn đến nhà này cả tuần hắn mới bắt đầu nghe như có người đi lại trong nhà. Hắn nghĩ tới lời báo trước khi mua căn nhà trong chúng cư này. Nhà để bảng bán đã lâu mà không ai chịu mua. Giá nhà mỗi ngày một sụt xuống một cách thảm hại, không bằng nửa giá những căn chung quanh. Chủ nhà chỉ muốn bán tống bán tháo cho rảnh nợ. Đã thay tới ba người giới thiệu nhà đất mà nhà vẫn trơ trơ ra đó. Khi bà giới thiệu nhà đất đưa hắn đến coi nhà, hắn ưng ý liền. Cái gì cũng còn tốt nguyên, có thứ còn mới toanh như cái tủ lạnh và cái máy rửa chén. Hắn ngạc nhiên hỏi bà "nhà đất" :
17/09/2013(Xem: 8788)
Vầng trăng ai xẻ làm tư. Nửa in Bút Nữ, nửa soi gầm giường. Ai bảo Hoa Lan không biết làm thơ ? Không, cô nàng ngoài tài viết văn quyến rũ độc giả đưa vào mê hồn trận với những mối tình A Còng và Nghịch Duyên, cũng biết xuất khẩu thành thơ đấy. Nhưng thơ của nàng thì ôi thôi chẳng ai chịu nổi cả vì chỉ toàn đi chôm thơ của người khác rồi cải biên, tân trang lại cho đúng vần đúng điệu và cuối cùng nhận là thơ của mình.
16/09/2013(Xem: 8556)
Hồ Bodensee tiếp giáp ba nước Áo, Đức, Thụy Sĩ vẫn còn đó, nhà Thi Thi ( Thi Thi Hồng Ngọc ) vẫn còn kia, trái đất tròn vẫn luôn tròn không méo, cho nên, chúng tôi hẹn gặp lại nhau không khó.Chỉ khó chăng tại lòng người “đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông „.Vâng, đúng vậy, tôi đã lừng khừng nửa muốn nửa không, ngán ngẫm khi nghĩ phải lủi thủi kéo valy một mình dù đoạn đường không dài, chỉ hai tiếng xe lửa từ nhà tôi qua Thi Thi rồi đến tu viện Viên Đức.
11/09/2013(Xem: 4381)
Nói đến hai chữ “Hạnh Phúc”, tôi chợt mỉm cười nhớ lại buổi học sinh động tại Khóa Tu Học Âu Châu với Hoà thượng Phương Trượng chùa Viên Giác Đức quốc. Hôm đó, Hòa thượng yêu cầu, học viên định nghĩa thế nào là hạnh phúc. Bao câu trả lời được nêu ra: Kiếm được nhiều tiền là hạnh phúc.
11/09/2013(Xem: 6719)
Có phải bất công lắm không khi hằng năm vào dịp Vu Lan, trên thế gian này không biết bao nhiêu văn nhân, thi sĩ, nhạc sĩ múa bút tán tụng tình Mẹ: Huyền thoại mẹ, Phật giáo tôn vinh giá trị những bà mẹ, lạm bàn về mẹ, tản mạn về mẹ v.v... và v.v... bên cạnh đó, dường như mọi người đã vô tình bỏ quên một thứ tình cũng nồng nàn không kém, đôi khi còn thắm thiết hơn, đó là tình cha. Vâng, tôi có một người cha như thế.
11/09/2013(Xem: 4591)
“Anh mong chờ mùa Thu. Trời đất kia ngả màu xanh lơ”, Bên kia khung cửa sổ, hàng phong lá đổi màu, những con đường ngập lá vàng rơi, những cơn gió se se lạnh vào mỗi buổi sớm mai, tất cả như báo hiệu mùa thu đang đến với mọi người.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]