Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

35. Hạ thứ 27 tại Jetavana (năm -563)

02/03/201421:15(Xem: 17348)
35. Hạ thứ 27 tại Jetavana (năm -563)
phatthichca2

Sự Tích Đức Phật Thích Ca
Soạn giả : Minh Thiện Trần Hữu Danh

(Ấn bản 09/2010, có hiệu chính và bổ túc)


7- Hạ thứ 27 tại Jetavana (năm -563)

Thầy Vangìsa hộ trì sáu căn[1]

Đại đức Vangìsa nổi tiếng là một vị khất sĩ vừa có biện tài vừa có khiếu về văn chương. Thầy rất có tâm hồn thi sĩ nói riêng và nghệ sĩ nói chung. Hồi mới xuất gia, thầy được theo học với vị y chỉ sư của thầy là Thượng tọa Nigrodhakappa. Hai thầy trò cư trú tại một ngôi đền ở ngoại ô thành Sàvatthi. Sau khi trưởng lão Nigrodhakappa tịch, thầy về nhập chúng tại tinh xá Jetavana. Một hôm, thầy Vangìsa tâm sự với thầy Ànanda rằng tâm thầy không được an tịnh và khẩn cầu thầy Ànanda hóa giải dùm. Hỏi ra, thầy Ànanda biết rằng, vốn có tâm hồn nghệ sĩ, thầy Vangìsa thường cảm thấy rung động, xao xuyến trước nhan sắc của các tiểu thư đến cúng dường tại tinh xá. Thầy Ànanda nói :

Này huynh đệ Vangìsa, có nhiều vị khất sĩ trước kia cũng có tâm trạng như thầy đã được đức Thế Tôn dạy pháp quán bất tịnh. Huynh đệ nên quán chiếu tấm thân kiều diễm của nữ giới như một túi da mong manh chứa đầy dẫy những thứ bất tịnh bên trong như máu mủ, đờm dãi, phân, nước tiểu, chẳng bao lâu sẽ đến lúc già nua, bệnh hoạn, thân thể sẽ thúi nát, tan rã, chẳng còn gì là đẹp đẽ nữa. Trong khi đó Chánh Pháp, Tam Bảo là những gì quý giá, cao thượng, mang đến hạnh phúc chân thật cho mọi người, thì đó mới là cái đẹp xuất trần, thanh tịnh, vĩnh cửu.

“Hơn nữa, này huynh đệ, đức Thế Tôn lại thường nhắc nhở các vị khất sĩ phải tinh tấn thực tập hộ trì sáu căn, gìn giữ cho sáu căn được thanh tịnh. Mắt không nên dính sắc, phải biết sắc là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã để sanh nhàm chán, ly tham, từ bỏ. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng thế. Đức Thế Tôn từng nói “Này các vị khất sĩ, mắt là một đại dương sâu thẳm, trong đó có đầy dẫy những loài thủy quái, những con nước xoáy và những đợt sóng ngầm rất nguy hiểm. Nếu không đi vững chắc trong chánh niệm, con thuyền nghiệp thức của quý vị sẽ bị những loài thủy quái, những con nước xoáy và những đợt sóng ngầm ấy nhận chìm trong biển sắc. Tai, mũi, lưỡi, thân và ý của quý vị cũng là những đại dương sâu thẳm, trong đó có đầy những loài thủy quái ...”

"Này huynh đệ Vangìsa, tôi nghĩ rằng quán bất tịnh và hộ trì nhãn căn là những vị thuốc có thể chữa lành bệnh "nhãn thức" của huynh đệ.

Thầy Vangìsa tạ ơn Thượng tọa Ànanda, rồi từ đó thầy chuyên cần thực hành phép quán bất tịnh và hộ trì sáu căn. Thầy làm bài thơ tự tỉnh như sau :

Đã khoác áo cà-sa,

Tham dục còn theo đuổi

Như trâu nhớ lúa người,

Quả thật là hổ thẹn !

Con của nhà đại tướng

Tài giỏi nghề cung tên

Ngàn quân bắn tứ phía

Vẫn phá được vòng vây.

Nhưng nay giai nhân đến

Sao đành chịu bó tay !?

An trú nơi Chánh Pháp

Ta quyết thắng trận này.

Ta đã theo Thế Tôn

Dòng họ của mặt trời[2]

Trên đường về thong dong

Tình ta đà trọn gởi.

Do hộ trì sáu căn

Ta ung dung tiến bước

Phiền não dù vô lượng

Nào lay chuyển được ta ?

Thầy Vangìsa là người thông minh tài giỏi nên dễ vướng vào tâm trạng tự cao. Có lần thầy thầm có ý khinh miệt các thầy khác, nhưng nhờ tu tập chánh niệm, thầy tự nhận ra tánh xấu của mình nên làm bài thơ sám hối như sau :

Đệ tử Gotama,

Hãy đoạn trừ kiêu mạn !

Con đường kiêu mạn này

Chỉ đưa về khổ thú !

Kẻ kiêu mạn ngấm ngầm

Cũng đi về địa ngục

Huống chi là những kẻ

Vênh váo nhìn cuộc đời.

Học đạo, thấy đường ngay

Tâm hồn được an lạc

Niềm vui đó thật cao

Ta phải mau đạt tới.

Hãy tập giữ chánh niệm

Mới mong được tam minh.

Kiêu mạn đoạn trừ xong

Mới thành công thật sự.

Sau khi được Thượng tọa Ànanda khai thị, thầy Vangìsa đã vượt được nhiều chướng ngại. Thầy tiến bộ rất nhanh và đã được trưởng lão Sàriputta xác nhận. Ngày tâm thầy bừng sáng, thầy làm bài thơ sau đây :

Ngày xưa say thơ mộng

Ta phiêu bồng khắp nơi

Cảnh chợ rồi cảnh quê

May thay được gặp Phật.

Thế Tôn đã thương xót

Dạy cho ta pháp mầu

Nghe xong khởi niềm tin

Khoát áo người khất sĩ.

An trú trong Chánh Pháp

Kiên cố, ta một lòng

Nay chứng được tam minh

Đền ơn bậc tỉnh thức.

Hạt giống của mặt trời

Thế Tôn đà gieo rắc

Vì chúng sanh u tối

Người khai mở lối ra.

Bốn sự thật nhiệm mầu

Con đường tám nẻo chánh

An lạc và tự do

Nghĩa lời đều vi diệu.

Phạm hạnh đã cao siêu

Độ sanh càng khéo léo

Niết bàn cứu muôn loài

Ơn sâu người chỉ dạy.

Thầy Sàriputta, trong một buổi giảng dạy cho các vị khất sĩ trẻ, có đem trường hợp của thầy Vangìsa ra để làm gương. Thầy bảo trong bước đầu tu học, thầy Vangìsa cũng đã từng có những tình cảm và những tâm trạng yếu đuối, nhưng sau đó, nhờ tu học tinh chuyên pháp hộ trì sáu căn, thầy đã vượt thắng được mọi phiền não và chứng ngộ được diệu pháp. Hộ trì sáu căn là pháp môn rất mầu nhiệm để vững tiến trên đường đạo.

Các luận chấp và những câu hỏi siêu hình do đâu mà có[3]

Đại đức Isidattà, người xứ Avanti[4], là một khất sĩ trẻ tuổi nhưng có nhiều tài năng và đạo hạnh. Một hôm, thầy và chín Thượng tọa cao niên được mời tới thọ trai tại tư gia của cư sĩ Citta tại thị trấn Macchikasanda. Cư sĩ Citta là người có đạo tâm, tinh thông giáo lý và cũng được dân chúng ái mộ gần như cư sĩ Anàthapindika. Ông thường hay thỉnh các vị cao đức tới nhà để cúng dường trai phạn[5]và để học hỏi thêm về giáo lý. Sau khi cúng dường trai phạn xong, cư sĩ Citta đảnh lễ các vị khất sĩ rồi xin phép được ngồi xuống một bên. Ông từ tốn nêu câu hỏi sau đây :

Bạch chư thượng tọa, con đã được nghe kinh Brahmàjala (Phạm Võng), trong đó Phật nói về 62 luận chấp của các giáo phái đương thời. Con cũng từng nghe những câu hỏi về siêu hình như: Thế giới là hữu biên hay vô biên, vĩnh cửu hay phải đoạn diệt; linh hồn và thân xác là một hay là khác; con người sau khi chết thì cái gì còn cái gì mất, ... Bạch chư thượng tọa, do đâu mà có những luận chấp và những câu hỏi siêu hình ấy ?

Trước câu hỏi của cư sĩ Citta, tất cả các vị khất sĩ đều nín thinh. Citta lập lại câu hỏi này tới ba lần mà cũng không có vị khất sĩ nào lên tiếng trả lời cả. Vị khất sĩ trẻ Isidattà bỗng hướng về các vị trưởng lão, lên tiếng :

Bạch chư thượng tọa, con có thể trả lời câu hỏi đó của cư sĩ Citta được không ?

Này huynh đệ, thầy có thể trả lời nếu thầy muốn.

Hướng về cư sĩ Citta, thầy Isidattà nói :

Này đạo hữu, theo tôi nghĩ, sở dĩ có những luận chấp và những câu hỏi siêu hình ấy vì người ta còn vướng mắc vào ngã kiến. Một khi đã diệt được ngã kiến, người ta sẽ không còn luận chấp và thắc mắc như thế nữa.

Cư sĩ Citta lộ vẻ ngạc nhiên và thán phục. Song ông ta lại nói :

Xin đại đức vui lòng giảng rõ hơn.

Này đạo hữu, người không được gần các bậc thiện tri thức, không được học hỏi Giáo Pháp giác ngộ, thường chấp rằng thân thể này là ta, hoặc thân thể này là của ta, hoặc có ta trong thân thể này, hoặc thân thể này ở trong ta. Người ấy lại có thể chấp rằng cảm giác là ta hay là của ta. Người ấy lại có thể chấp rằng tư tưởng là ta hay là của ta[6]... Đó là người đang bị vướng vào ngã kiến. Chính vì bị vướng vào ngã kiến, chính vì chấp có cái ta thật sự, nên mới có cái chấp ta là cái này hay ta không phải là cái này, ta ở trong cái này hay cái này ở trong ta ...Do đó sinh ra 62 luận chấp mà đức Thế Tôn đã đề cập đến trong kinh Brahmàjala (Phạm Võng). Cũng chính vì chấp ngã nên mới sanh ra các thắc mắc về hữu biên hay vô biên, thường hay đoạn, còn hay mất, đồng hay khác, vân vân ... Này đạo hữu, một khi đã tu tập phá trừ được ngã kiến thì những luận chấp và những câu hỏi về siêu hình kia sẽ trở thành vô nghĩa.

Cư sĩ Citta hoàn toàn bị thầy Isidattà chinh phục. Ông kính cẩn hỏi :

Bạch đại đức, quê ngài ở đâu ?

Thưa đạo hữu, quê tôi ở Avanti.

Bạch đại đức, tôi nghe nói ở Avanti có một người trẻ tuổi tên Isidattà đã xuất gia. Đó là một thanh niên thông minh lỗi lạc. Chẳng hay đại đức có biết người đó không ?

Thưa đạo hữu, tôi có biết.

Thưa đại đức, vị khất sĩ tài đức ấy hiện đang ở đâu ?

Đại đức Isidattà im lặng. Cư sĩ Citta là người thông minh, ông biết ngay người đang ngồi trước mặt mình là Isidattà. Ông liền hỏi :

Có phải đại đức chính là đại đức Isidattà đó không ?

Thưa phải.

Vậy thì thật là quý hóa và hân hạnh cho tôi biết mấy. Bạch đại đức Isidattà, chúng tôi rất mong được đại đức đến viếng chúng tôi thường thường. Chúng tôi xin nguyện cúng dường đại đức tất cả những gì đại đức cần đến như thực phẩm, y phục, thuốc men và chỗ ở.

Thầy Isidattà im lặng. Sau đó các vị khất sĩ từ giã. Thầy Isidattà không có dịp nào trở lại nhà cư sĩ Citta nữa.



[1]Xem Đường Xưa Mây Trắng, trang 465-469; Tạp A Hàm 1208-1221; Tương Ưng Bộ, chương 8, kinh 1-12; Tiểu Bộ, Trưởng Lão Tăng Kệ, kinh 264: Vangìsa.

[2]Suryavamsa(Nhật Chủng: dòng họ mặt trời) là một trong năm họ của đức Phật. Bốn họ kia là Gotama(Cồ Đàm), Okkàka(Cam Giá), Sujàtà(Thiện Sanh) và Sàkya(Thích Ca).

[3]Xem Đường Xưa Mây Trắng, trang 470-472; Tương Ưng Bộ, chương 41, kinh 3: Isidattà; Tạp A Hàm 570.

[4]Theo Geography of Early Buddhism thì xứ Avanticó thủ đô là Ujjeni. Xứ Avanti (A Bàn Đề) là một xứ nhỏ nằm giữa 3 xứ Magadha phía đông, Kosala phía bắc và Vatsa phía nam. Hiện nay Avanti là Màlwa Nimàr.

[5]Cúng dường Trai phạn(Trai diên, Trai hội) là cúng dường vật thực cho Tam Bảo, người thí và kẻ thọ đều phải lấy cung kính làm tông chỉ và phải cẩn thận gìn giữ 3 nghiệp thân khẩu ý được thanh tịnh. Cúng dường Trai tăng(Sanghikadana) là ngoài việc cúng dường vật thực lại cúng dường thêm các vật dụng hằng ngày.

[6]Đây là 62 kiến chấp: 5 uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) X 4 chấp (sắc là ngã, sắc là ngã sở, ngã ở trong sắc, sắc ở trong ngã; thọ là ngã, ...) X 3 đời (quá khứ, hiện tại, vị lai) + 2 chấp (có ngã, không ngã).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/08/2014(Xem: 21203)
Nhân quả là định luật căn bản xuyên suốt quá trình thành trụ hoại diệt của tất cả chúng sinh từ đời này sang đời khác, cho đến vũ trụ, vạn vật cũng không phải tuần hành, biến dịch một cách ngẫu nhiên, vô lí, mà luôn tuân theo định luật nhân quả. Định luật này không do một đấng thần linh nào, xã hội nào đặt ra cả, mà là luật tự nhiên, âm thầm, lặng lẽ, nhưng luôn đúng đắn, chính xác, hiệu quả vô cùng.
17/08/2014(Xem: 28343)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này. Vì thế, thiền không phải là một lãnh vực siêu nhiên vượt ngoài phạm trù ý thức thông thường như nhiều người lầm tưởng, mà trái lại chính là sự soi rọi, chiếu sáng những trạng thái tâm thức hết sức bình thường mà mỗi người chúng ta đều đã và đang trải qua trong cuộc sống thường ngày.
16/08/2014(Xem: 4447)
Đất đai phì nhiêu nhưng không ai dám khai phá do quá nhiều đỉa. Có vị sư giàu lòng thương dân đã phát nguyện dâng hiến thân xác của mình cho bầy đỉa bâu xé đổi lấy sự bình yên. Tương truyền vùng đất làng Thới Hòa (nay thuộc ấp 4, xã Tân Định, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương) vốn phì nhiêu nhưng không ai dám khai phá do quá nhiều đỉa. Có vị sư giàu lòng thương dân đã phát nguyện dâng hiến thân xác của mình cho bầy đỉa bâu xé đổi lấy sự bình yên.
15/08/2014(Xem: 9858)
Sau thời kinh, ở phương đông trời cũng vừa ửng sáng. Sa di Thiện Thiên như thói quen đi mở hết các cánh cửa sổ của chánh điện cho ánh sáng và gió sớm lùa vào. Chẳng bao lâu toàn chánh điện đã chan hòa ánh sáng báo hiệu một ngày như mọi ngày sinh hoạt của tịnh xá Ngọc Hưng. Chánh điện tịnh xá Ngọc Hưng nền tráng xi-măng, có những đường nứt thật rõ. Gần bục thờ được trải 4 chiếc chiếu nylon để tăng chúng lễ lạy hai thời công phu. Nhìn từ cuối chánh điện, tượng Đức Bổn sư Thích Ca và những đồ thờ bằng kim loại sáng bóng như mới được đánh dầu đồng trong dịp Đản Sinh vừa qua.
14/08/2014(Xem: 12220)
Thủ tướng Abe Shinzō (An Bội Tấn Tam-安倍 晋三) đã từ chức vào năm 2007, và chức Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do khi chưa làm được một năm, sau thất bại thảm hại của đảng này khi bầu cử Thượng viện. 12 tháng 9 năm 2007 : Nhiệm kỳ của ông lại bị phá hỏng vì hàng loạt cuộc từ chức của các Bộ trưởng Nội các và vụ tiết lộ về việc để mất số liệu lương hưu. Ông từ chức sau một năm tại nhiệm với lý do sức khỏe. Bảy tháng sau, Thủ tướng Abe Shinzō (An Bội Tấn Tam-安倍 晋三) bị bệnh hay quên lãng và đã thử thách mình bằng cách dùng phương pháp trị liệu "Tọa thiền" ngồi thiền tại Chùa Zenshōan (臨済宗國泰寺)một ngôi chùa thuộc Thiền phái Lâm Tế ở huyện Yanaka, Tokyo.
14/08/2014(Xem: 5769)
Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo. Tác phẩm Trước Sự Nô Lệ Của Con Người, xuất bản giữa thập niên 1960 đã chứng minh điều đó. Nhưng vẫn chưa hết, cái duyên ngầm trong chữ nghĩa của Hòa thượng càng kinh người hơn khi ta có dịp so sánh các bài kệ trong bản dịch Kinh Tạng với nguyên tác Pāḷi hay qua bản dịch tiếng Anh.
14/08/2014(Xem: 4455)
Vâng, tôi là một con Ma, các bạn đừng vội sợ hãi tôi không làm gì đâu! Tôi cũng giống như các bạn, chỉ khác một điều là tôi nhìn thấy được bạn nhưng bạn không có khả năng nhìn thấy được tôi. Để tiện việc xưng hô, cứ gọi tôi là Con Ma “Nửa đời chuông mõ“, cái tên cũng thánh thiện đấy chứ! Đã hết sợ tôi chưa? Nhân đọc bài “Bóng anh hùng“ của nhà văn Doãn Dũng, chuyên gia chuyển âm tư tưởng của người chết cho người sống cảm thông. Vì tôi lúc sinh thời là độc giả trung thành của tờ báo đạo Viên Giác, nên muốn tìm cô Bút Nữ Nhật Hưng để nhờ vả. Nhưng khi biết cô rất sợ ma, chỉ cần sự xuất hiện của tôi là cô đã hồn siêu phách lạc mất rồi. Do đó không còn sự lựa chọn nào khác hơn là tìm cô Hoa Lan để “chọn mặt gửi lời“, cái người dám tuyên bố câu “không sợ ma chỉ sợ người“.
12/08/2014(Xem: 7501)
Ngày nọ, một đứa trẻ hỏi cha nó : -“Thưa cha, sau này con phải sống làm sao cho được lòng khen ngợi của mọi người ?” Người cha thấy con mình còn nhỏ tuổi mà đã biết suy nghĩ như thế, trong lòng không khỏi lâng lâng vui mừng. Buổi sáng đi làm việc, ông gọi con đi theo, để cho nó có dịp được học hỏi.
25/07/2014(Xem: 12029)
Mùa An Cư Kiết Hạ lại về, đặc biệt lần này Giáo Hội Úc Châu sẽ tổ chức kỳ thứ 15 tại Tu Viện Quảng Đức của thành phố Melbourne đáng yêu, với số người Việt đông vào hạng nhất nhì của xứ Úc. Đấy cũng là mùa Vu Lan, mùa báo hiếu với một biểu tượng không thể thiếu là Ngài đại hiếu Mục Kiền Liên. Ngài là ai mà nổi tiếng đến thế! Từ già đến trẻ, ai cũng thuộc điển tích “Mục Liên vào địa ngục đưa cơm cho mẹ, nhưng than ơi cơm hóa than“, đã biết bao nhạc sĩ phổ nhạc và biết bao soạn giả dàn dựng những vở tuồng cải lương về lòng hiếu thảo của Ngài đã lấy bao nước mắt người xem.
25/07/2014(Xem: 5562)
Những con thú dữ như cọp, beo, gấu.. bình thường thì chúng cũng biểu lộ tình cảm, lòng thương đối với con chúng sinh ra, y như các loài hiền lành khác như chim, sóc, nai ...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]