Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

08. Lễ hội truyền thống

27/11/201311:38(Xem: 19756)
08. Lễ hội truyền thống

Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14

Tác giả: Diki Tsering

Biên tập & giới thiệu:Khedroob Thondup

Nguyên tác: Cụ Bà Diki Tsering

Việt dịch: Thích Nguyên Tạng

Diễn đọc: Pt Quảng An



8. Lễ hội truyền thống






Lễ hội lớn nhất trong năm là tết Losar, năm mới của Tây Tạng. Người ta sửa soạn cầu kỳ cho tết Losar từ ngày mùng tám tháng mười hai. Trong hai mươi ngày chúng tôi làm bánh mì, bánh ngọt, bánh mì tròn "kabse" và "timomo". Chúng tôi để những món ăn này đông lạnh tự nhiên rồi xếp chúng chồng lên nhau trong kho thực phẩm cho tới lúc dùng chúng.

Lúc này bánh mì nướng cho tháng giêng, tháng hai và tháng ba được xếp chồng thành hàng và để cho đông cứng. Buổi tối, trước ngày cần ăn bánh mì, chúng tôi cho bánh mì vào trong một cái thùng rồi hâm nóng, nếu không sẽ không thể ăn được bánh vào ngày hôm sau vì chúng đông cứng như đá.

Ngày cuối năm, chúng tôi nấu một đầu heo, luộc thịt cừu và thịt heo (chúng tôi không ăn gà hay cá). Rồi chúng tôi mời thân nhân và bạn bè đến ăn tối với bánh mì và thịt. Không ai ngủ trong ngày cuối năm. Chúng tôi uống rượu và vui chơi suốt đêm. Tôi thường rất vui thích trong ngày này, cũng như tất cả những đứa trẻ khác, vui sướng trong dịp tết Losar. Tôi thường hỏi "Mặt trời mọc chưa? Mặt trời đã mọc chưa?",vì đó là dấu hiệu ngày tết bắt đầu.

Trong những ngày tết chúng tôi mặc những bộ quần áo mới đẹp nhất, và cưỡi ngựa với những bộ yên cương được trang trí cầu kỳ nhất. Chúng tôi đốt pháo, bắn súng, hát và hô to "Lha gyal lo",tiếng hô trong dịp tết và có nghĩa là "các vị thần chiến thắng". Chúng tôi thăm viếng tất cả bạn bè và tặng quà, phần lớn là bánh mì và bánh ngọt. Bọn trẻ con chúng tôi sụp lạy ba lần trước ông bà, cha mẹ và tất cả những người trên khác, rồi chúng tôi tặng nhau bánh mì và chúc nhau "Tashi deleg"(chúc may mắn). Nếu có các vị lạt ma ở gần đó, chúng tôi sẽ đến thăm để được các vị ban phước lành đầu năm mới.

Ngày mùng hai tết chúng tôi đi lễ chùa. Mọi người vui chơi cho đến ngày rằm tháng giêng. Đàn ông chơi mạt chược và đánh bạc, những người trẻ thì hát và múa, trẻ con chơi đủ thứ trò chơi kể cả đánh đu. Sau ngày rằm, những người già không phải làm việc gì nên tiếp tục vui chơi, còn những người trẻ và những người giúp việc thì phải quay lại tiếp tục công việc của mình.

Ở Lhasa, sau ngày mùng hai tết Losar, toàn thành phố trật tự và yên tĩnh, vì đó là lúc bắt đầu Đại Lễ Cầu Nguyện Monlam. Ở Amdo chúng tôi không có tục lệ này.

Ngày lễ hội thứ hai là ngày mùng hai tháng hai. Trong ngày này chúng tôi đưa ngựa đến hội chợ ngựa. Người ta mua bán ngựa và đua ngựa tại đây. Hội chợ này chỉ có ở Tsongkha chứ không có ở một nơi nào khác trên đất nước Tây Tạng.

Có một lễ kỳ lạ vào ngày mùng tám tháng tư. Trong ngày này các thầy bói xuất thần và nói ra những lời tiên tri cho những người muốn biết tương lai của mình. Những cặp vợ chồng chưa có con thì cầu nguyện và mang thùng đi lấy nước, từ ba mươi đến năm mươi lần, vừa đi vừa nói là mình muốn có con.

Ngày mùng năm tháng năm là ngày uống rượu.

Vào ngày mùng sáu tháng sáu mọi người đi chơi ở một nơi có suối nước khoáng mà người ta xem là rất tốt cho sức khỏe. Nước suối ở đó tốt cho dạ dày, mắt, tóc và bàn chân. Có một trăm lẻ tám suối nước khoáng trên một quả đồi. Đàn bà con gái đi thành một đoàn chứ không đi cùng với đàn ông con trai. Khi hai đoàn tới suối, họ trao đổi những đồ ăn họ mang theo và ca hát với nhau. Những bài hát này chỉ hát ở suối trong ngày này và không được hát ở nhà. Họ ở đây trọn một ngày dưới những cái dù nhiều màu. Trong những ngày đó chúng tôi thật là vui vẻ, không có một chút lo nghĩ nào.

Vào ngày mười lăm tháng tám, vui Tết Trung Thu, thân nhân và bạn bè biếu tặng nhau bánh "yubin", hay bánh nướng, bánh dẻo. Khi trời tối chúng tôi bày bánh cùng với trái cây trên những cái khay rồi đặt chúng dưới ánh trăng để cúng, chúng tôi thắp những ngọn đèn bơ cho các vị thần và phục lạy mặt trăng ba lần. Sau đó mọi người ăn bánh và trái cây. Một số trẻ con chúng tôi len lén đi tới gần những cái khay và khi không có ai nhìn, lấy những món bày trên đó bỏ vào túi của mình.

Trong thời gian người Mông Cổ cai trị Trung Hoa (thời nhà Nguyên, 1271-1368), có nhiều tổ chức bí mật được thành lập để chống lại chính quyền. Một năm nọ, vào ngày trước tết Trung Thu, một cuộc nổi dậy đã diễn ra. Để tổ chức cuộc nổi dậy này, người ta giấu những bức thư kêu gọi và những lá truyền đơn trong những cái bánh.

Ngày hai mươi chín tháng chín là ngày lễ của những người làm nghề thuộc da thú và những người buôn da và lông thú. Họ làm lễ cúng các vị thần tổ nghề da và cầu nguyện cho thời tiết lạnh hơn để người ta mua nhiều áo lông.

Trong tháng mười, có một ngày người ta mời các tu sĩ đến nhà để tụng kinh cầu nguyện và dâng đèn bơ. Buổi tối hôm đó chúng tôi đi tới chùa ở gần nhà để lấy dầu thắp đèn bơ. Các tu sĩ tụng kinh ở mỗi nhà trong vùng và mọi nhà thay phiên nhau nấu ăn cho các vị này. Buổi tối trẻ con mang tô đến lấy mì ở nơi nào đang có các tu sĩ tụng kinh. Ở đó sẽ có một nồi mì đầy và mỗi đứa trẻ được lấy một tô. Người lớn lấy mì trong một nồi khác. Lễ này kéo dài tám ngày.

Ngày mùng chín tháng mười là ngày chúng tôi phóng sanh một con ngựa và một con cừu để chúng không bị đồ tể làm thịt, và chúng tôi tụng kinh trong ba ngày. Rồi chúng tôi đưa những con vật này tới cho các vị tu sĩ. Chúng tôi nướng bánh mì gởi cúng dường các vị tu sĩ ở tu viện Kumbum, và các vị này tụng kinh cầu nguyện cho chúng tôi.


trau yak
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7638)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8523)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7330)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6215)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 7108)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5344)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 4028)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8735)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 23265)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4695)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]