Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Diễn văn Khai Mạc (TT Tâm Phương)

10/11/201313:19(Xem: 30539)
Diễn văn Khai Mạc (TT Tâm Phương)

tuvienquangduc_3


Diễn Văn Khai Mạc
Mừng Chu Niên 20 năm & Khánh Thành Bảo Tháp Tứ Ân

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Ngưỡng bạch hiện tiền Chư Tôn Hòa Thượng, Chư Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni.

Kính thưa chư liệt vị lãnh đạo Cộng Đồng, Hội Đoàn, Đoàn Thể, quí Cơ Quan Truyền Thông, Phát Thanh, Báo Chí, quí Thân Hào Nhân Sĩ, quí Ân Nhân Đồng Hương Phật tử xa gần thân mến.

Lời đầu tiên chúng con xin thành tâm đảnh lễ đón mừng sự quang lâm chứng minh của hiện tiền Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni.

Chúng tôi cũng hân hoan đón chào sự có mặt thâm tình của quí vị lãnh đạo Cộng Đồng, Hội Đoàn, Đoàn Thể, quí Cơ Quan Truyền Thông, Phát Thanh, Báo Chí, quí Thân Hào Nhân Sĩ, quí Ân Nhân, Thân Hữu, đồng kính quí Đồng Hương Phật tử đã vì thâm tình của người con Việt xa xứ, vì đạo tình dân tộc mà chư liệt vị đồng có mặt cùng với chúng tôi vui mừng buổi đại lễ hôm nay.

Kính thưa Chư Liệt Vị, 30 năm của những người con Việt lưu vong trên xứ người qua biến cố lịch sử của mùa xuân 1975. Lần lượt từng đoàn người tìm đường vượt biển vì lý tưởng tự do dân chủ, trong đó có nhiều Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni cũng đã ra đi. Trong số đó, chúng tôi là Tỳ kheo Thích Tâm Phương cũng cùng số phận với những con tàu lênh đênh trên biển Đông nhiều ngày để tìm về bến tự do.

Hồi tưởng lại, giữa mùa hè năm 1986, chúng tôi cùng 10 vị Tôn Đức kiết giới an cư tại Chùa Liên Hoa thuộc vùng kinh tế mới ở Hố Nai, Long Thành. Ngôi Chùa tranh vách đất nằm giữa miếng đất rộng hơn 20.000 mét vuông, chung quanh bao bọc với những luống mì xanh mướt của một vùng đất vừa khai hoang, hòa quyện cùng hàng cây bạch đàn dài hun hút hơn 200 mét dẫn vào sân chùa trơ trọi với cái giếng nước bằng đất có hai cây gỗ rừng gác ngang miệng giếng, mà ngày ngày quí Thầy đều ra đây đứng làm điểm tựa để xách lên từng gầu nước để nấu ăn, tắm rửa và tưới cây.

Xa xa bên kia đồi là một mái tranh cũng tỏa khói lam chiều mỗi khi hoàng hôn buông xuống, cũng từng nhịp mõ nhặt khoan của chú tiểu công phu chiều trong ngôi Bồ Đề Lan Nhã Tự.

Dọc theo ngọn đồi Lan Nhã Tự này là một con suối nhỏ chảy róc rách, dòng nước trong ngần dẫn tới bờ Diệu Pháp Tự, là một ngôi Chùa Ni do Sư Bà Diệu Không khai sơn rồi giao lại cho đệ tử là Ni Sư Hạnh Thân và những tỷ muội làm trụ trì với những nương lang, luống mì và những giồng khoai sắn.

Tất cả chúng tôi có ba ngôi chùa này được khai sơn và hòa nhập với cư dân vùng kinh tế mới Hố Nai. Hơn 20 Tăng Ni, ngày ngày 2 buổi công phu sớm chiều và rồi vui cùng nương rẫy củ khoai trái bắp, giây bí đỏ, bí đao xanh, đậu bắp v.v…Tất cả đều vươn lên mầm sống xanh mượt bằng những gánh nước nặng trĩu trên từng đôi vai của chúng tôi được lấy đi từ con suối nhỏ chảy dọc phía sau chùa, là những bước đi đầy kham nhẫn cho đạo pháp, dân tộc trường tồn trong từng tâm niệm, khí tiết trải nghiệm của quí Thầy và quí Sư Cô với bộ áo vạt khách nâu sòng loang lổ nhiều miếng vá đủ màu, đánh dấu những ngày tháng sống đầy ý nghĩa tại quê nhà.

Dù phải chịu muôn ngàn gian khổ

Con dốc lòng vì đạo hy sinh.

Kính thưa Chư Liệt Quí Vị, cũng từ nơi này một buổi chiều mùa hạ, mùa an cư cấm túc tu học trong 3 tháng đó, tôi được một nhóm Phật tử tại Sài Gòn lên báo một tin tốt lành là: “chúng con đã lo và tìm đường cho Thầy đã xong, chúng con mời Thầy về lên đường”.Tôi nhớ rất rõ một buổi chiều đầy thổn thức lo âu của một chuyến đi xa không mấy an toàn bắt đầu vây bủa. Tôi cùng một nhóm Phật tử ngồi trên chiếc xe Đasu cũ kỷ, vượt qua những đoạn đường ngặt nghèo đất đỏ phủ kín của vùng kinh tế mới, và cuối cùng chiếc xe đã về đến cầu Sài Gòn. Tôi ngồi trầm tư nhìn kỹ quan sát mọi thứ sinh hoạt của một buổi chiều hoàng hôn buông xuống trên quê hương tôi.

Nhưng không có gì đáng nhớ, mà tôi chỉ nhìn thấy hằn in trên từng nét mặt nỗi lo lắng tất bật khi thành phố đã lên đèn, như báo hiệu một ngày đã trôi qua, những tấm vé số vẫn còn đầy ấp trên tay em chưa bán hết, gánh khoai lang luộc và đậu hủ non còn nặng trĩu trên vai người phụ nữ trạc tuổi sáu mươi.

Tôi ngắm nhìn đâu đâu cái ăn, cái mặc, cái nợ nần đáo hạn, như vẫn còn vây bủa những người dân nghèo khó khốn cùng của một thành phố đã có một thời mệnh danh là hòn ngọc viễn Đông. Nhưng rồi tôi vẫn được nhìn thấy nét hân hoan thầm kín của mỗi người đằng sau nỗi lo âu tất bật kia, ai ai cũng cố gắng tìm về một bữa cơm chiều đầm ấm bên những người vợ hiền, con thơ hay cha mẹ đã già yếu, ngồi tựa hiên nhà miệng mỏm mẻm nhai trầu ngóng đợi những người con đi tìm mưu sinh trở về khi mặt trời vừa tắt nắng.

Bến bờ tự do đã đến, tôi giã biệt quê hương, giã biệt thành phố Nha Trang thân thương, giã biệt Chùa An Dưỡng tại làng quê Thái Thông, Vĩnh Thái, nơi đã sanh ra tôi và nuôi lớn bằng ruộng đồng bát ngát, giã biệt mẹ già và người thân, giã biệt Sư Phụ tôi cùng Tổ Đình Linh Sơn Pháp Bảo Cầu Dứa, nơi đã vun trồng sơ tâm bồ đề cho từng sứ giả của Như Lai.

Hòn đảo tỵ nạn Bi Đông, Malaysia vào ngày 15-7-1986 đã đón nhận chúng tôi cùng 41 người sau 5 ngày hành trình vất vả, lênh đênh trên biển. Lúc bấy giờ trên đảo có khoảng 11.000 người Việt tỵ nạn cùng 6 vị Tôn Đức như TT. Thiện Quang, TT. Minh Thông hiện đang ở Canada, chúng tôi cùng vài vị nữa. Ôi bút mực nào diễn tả cho hết những ngày tháng đầy ý nghĩa gian lao trên bước đường vượt biển và tỵ nạn, mà hầu hết chúng tôi cùng quí vị đang ngồi ở đây đã từng trải qua không ít gian nan thống khổ. Xin hẹn lại cùng quí vị tìm đọc trong kỷ yếu 20 năm của Tu Viện Quảng Đức sẽ phát hành vào năm tới.

Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni, kính thưa Chư Liệt Quí Vị thân mến,

Sau 6 tháng ở trên đảo Bi Đông, chúng tôi được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan bảo lãnh qua Úc, lúc bấy giờ văn phòng của Giáo Hội đặt tại Chùa Phước Huệ, tiểu bang Sydney.

Sau 10 ngày ở tại văn phòng của Giáo Hội, chúng tôi được Giáo Hội bổ nhiệm về Trụ Trì Chùa Quang Minh tại 177 Morris St, vùng Sunshine. Sau gần 3 năm làm việc tại đây chúng tôi đã mua cho Giáo Hội cũng như Chùa Quang Minh miếng đất rộng hơn 30 ngàn mét vuông của thời điểm năm 1989 với số tiền $ 305.000 Úc Kim. Một miếng đất rộng đẹp mà về sau đã trở thành chốn tòng lâm cho ngôi Chùa Quang Minh.

Sau khi mua đất xong vì lý do sức khỏe nên tôi xin từ chức trụ trì chùa Quang Minh và về xin tịnh dưỡng một thời gian gần 5 năm tại vùng Broadmeadows, một ngôi chùa nhỏ do chúng tôi khai sơn tại nơi đây. Năm năm tại vùng Broadmeadows là một chặng đường khó khăn, từ một ngôi nhà nhỏ cải gia vi tự, gặp phải sự phiền lòng của người láng giềng bản xứ. Đây cũng là những kinh nghiệm “vạn sự khởi đầu nan” của chư Tôn Đức Tăng Ni đang sinh hoạt và phụng sự đạo Pháp trên xứ người.

Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, kính thưa Chư Liệt Quí Vị,

Sau 5 năm khó khăn tại ngôi nhà cải gia vi tự, những người con Phật tại đạo tràng Tu Viện Quảng Đức đã được thuyên chuyển về vùng Fawkner này… Nhìn lại chặng đường đã đi qua, từ ngày khai sơn 20.6.1990 đến hôm nay 24.10.2010 là tròn đủ 20 năm 4 tháng. Chúng tôi không thể nào nhớ hết những người con Phật đầu tiên đã chắc chiu từng đồng trong những lon tiết kiệm, đã giúp tôi bán từng ly nước mía, từng cái bánh bao trong những lần hội chợ của Cộng Đồng, trong số những người giúp tôi ngay từ những ngày đầu, bây giờ có những người đã về với Phật như bác Minh Đức, cô Tâm Đức và vài người nữa. Nhìn lại một chặng đường của 20 năm trên con đường phụng sự đạo Pháp trên xứ người, những người con Phật cả hai hàng đệ tử, xuất gia và tại gia chịu không ít sự thăng trầm vinh nhục khó khăn gian khổ.

Hai mươi năm, một chặng đường của Tu Viện Quảng Đức, luôn sống và thực hiện theo đúng con đường Chánh Pháp của Như Lai, Tổ Tổ Tương Truyền, theo giòng phái Đại Thừa Lâm Tế Liễu Quán, công phu sớm chiều, độ sanh, quan hôn, tang chế, và luôn thực hiện theo đúng chí nguyện “Thượng Cầu Phật Đạo, Hạ Hóa Chúng Sanh”.

Hai mươi năm, một chặng đường Tu Viện Quảng Đức luôn luôn đứng trong lòng của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Hải Ngoại tại Úc Châu, và sinh hoạt hướng dẫn Phật tử tu học theo đường hướng chung của Giáo Hội đề ra.

Kính thưa quí vị, những gì hiện có của Tu Viện Quảng Đức mà quí vị đã nhìn thấy đó là biểu hiện sự kham nhẫn, thăng trầm trải nghiệm 20 năm qua của người con dân nước Việt nói chung và nói riêng cho những người con Phật tại đây.

Vườn hoa Giác Ngộ dưới cội Bồ Đề, ngôi già Lam Quảng Đức được phần nào thành tựu trang nghiêm khiêm tốn qua nhiều bàn tay, trái tim và khối óc.

Vì dân tộc và đạo pháp, mà những người con nước Việt đã ngày đêm thao thức, nỗ lực bằng tất cả tài sức, mồ hôi và nước mắt, tâm đức và chí nguyện để nuôi lớn hoài bão, thực hành tâm nguyện của mình, để đóng góp vào nước Úc, xứ sở đa văn hóa này một nền văn hóa Việt, một nền văn hóa Phật Giáo Việt Nam trên xứ người.

Kính thưa quí vị, bước ngoặc hơn 35 năm qua của Cộng Đồng Việt Nam, cũng như 20 năm sự có mặt của Tu Viện Quảng Đức và nhiều cơ sở Tự Viện khác trên toàn Liên Bang Úc Châu, chúng ta có thể khẳng định là chúng ta đã sánh vai cùng các sắc tộc khác đã đến đây trước chúng ta như cộng đồng Ý Đại Lợi, Thổ Nhĩ Kỳ, Lebanon v.v… Chúng ta đã khẳng định vị trí của cộng đồng người Việt Tự Do trên xứ người.

Tu Viện Quảng Đức rồi đây sẽ đi vào cổ kính, tường phủ rêu xanh, chúng tôi cùng tất cả quí vị, rồi đây chúng ta cũng sẽ da mồi tóc bạc, chấp nhận định luật Vô Thường để ra đi vĩnh cửu… nhưng chúng tôi cũng như quí vị, khi sống với đời, chúng ta cần mẫn làm việc để lại cho đời và cho xã hội những hiện vật, dù ít hay nhiều; chúng ta cũng đã tạo tác thành thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp… mà đức Phật đã từng dạy sự đau khổ hay hạnh phúc, sự ràng buộc hay giải thoát, đều bắt nguồn từ các hạnh nghiệp Thiện hay Ác, Xấu hay Tốt của chính thân và tâm mình.

Xin chân thành tri ân, tạc dạ ghi ơn những người con nước Việt lưu lạc trên xứ người xa gần nơi hải ngoại, hồi hướng công đức đến những người Phật tử xa gần đã cùng với chúng tôi chuyển lăn bánh xe chánh Pháp của đức Phật trên xứ người, để cứu mình giúp đời thêm hòa bình an lạc.

Hồi hướng công đức đến tất cả quí Phật tử tại đạo tràng Tu Viện Quảng Đức đã nhiều năm cộng khổ, và nhất là vài tháng gần đây quí vị đã đổ nhiều công lao, tiền của cho công việc Phật sự chung được thành tựu viên mãn.

Cho dù Ban Trị Sự, Ban Tổ Chức Đại Lễ tại Tu Viện Quảng Đức có cố gắng đến đâu thì sự thiếu sót không thể nào tránh khỏi.

Ngưỡng niệm Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni, cùng toàn thể quí vị niệm tình thứ lỗi cho. Nguyện cầu mười phương Chư Phật, Chư Vị Bồ Tát chứng minh gia hộ.

Nhân Danh Viện Chủ Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức chính thức tuyên bố khai mạc buổi Đại Lễ Khánh Thành Bảo Tháp Tứ Ân và Mừng Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức.

NamMô Chứng Minh Sư Bồ Tát Ma Ha Tát, Tác Đại Chứng Minh

Tỳ Kheo Thích Tâm Phương

dienvankhaimac-vndienvankhaimac-vn2
dienvankhaimac-vn3dienvankhaimac-en
dienvankhaimac-en2
dienvankhaimac-en3
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4639)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43764)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4372)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4321)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4219)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6340)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4611)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4025)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 24920)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 23989)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]