Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 05

06/11/201320:30(Xem: 8011)
Phần 05

Truyện Cổ Phật Giáo

Tập 5
Thích Minh Chiếu
Sưu tập

---o0o---

Phần 05

Bất diệt trong sanh diệt

Bảy bước thăng trầm

Chim cú mèo

Phất Già Sa Vương với pháp vô thượng

Oán thù vay trả



Bất diệt trong sanh diệt

Có một hôm, vua Ba Tư Nặc bạch Phật:

- Bạch Ðức Thế Tôn! Ngày trước khi chưa gặp Ngài, tôi thường nghe các ngoại đạo nói thân này chết rồi mất hẳn. Và như thế gọi là Niết Bàn. Ðến nay tuy gặp Phật, đối với vấn đề ấy tôi vẫn chưa thể giải quyết cách nào cho khỏi phải trái với tâm tánh bất sanh bất diệt?

Phật dạy:

- Nhân giả! Cái thân thể của ông đó có thường còn không tiêu diệt không?

- Bạch Ðức Thế Tôn! Phải tiêu diệt?

Vì thân tôi tuy chưa chết nhưng tôi xét thấy nó thay đổi mãi mãi, như lửa đốt củi thành than, than tiêu ra tro, cho đến tan mất.

- Chính vậy, nhân giả! Nhưng ông già yếu như thế dáng mạo hiện giờ có giống lúc còn nhỏ không?

- Bạch Ðức Thế Tôn! Giống thế nào được? Khi nhỏ tôi tươi trẻ mà nay già cả thì tóc bạc mặt nhăn...

- Nhưng đột nhiên thay đổi như thế chăng?

- Bạch Ðức Thế Tôn! Nó ngấm ngầm thay đổi, tôi không hề biết. Khi hai mươi khác lúc mười tuổi, khi ba mươi lại suy hơn hai mươi, đến bây giờ sáu hai tuổi, ngó lại lúc năm mươi thì lúc ấy cường tráng nhiều. Nhưng đó là kể trong chừng chục năm, chứ thật suy xét kỹ càng thì nó thay đổi trong từng phút, từng giây và rồi đây sẽ điêu tàn.

- Nhân giả! Ông xét thân thể ông biến hóa không ngừng và sẽ tiêu diệt như thế, nhưng ông có biết trong cái thân sanh diệt ấy có cái gì bất sinh bất diệt không?

- Bạch Ðức Thế Tôn! Thật tôi không biết.

- Nhân giả! Ông bắt đầu thấy nước sông Hằng lúc mấy tuổi?

Bạch Ðức Thế Tôn! Khi ba tuổi mẫu thân tôi dắt tôi đi bái yết đền trời Kỳ Bà, bấy giờ đi ngang qua sông Hằng tôi đã trông thấy nước sông ấy.

- Ông vừa nói thân thể ông thay đổi rõ ràng nhất là trong hàng chục năm. Vậy khi ba tuổi ông thấy nước sông Hằng với mười ba tuổi thấy nước sông ấy, hai cái thấy đó có gì khác nhau không?

- Bạch không! Cho đến nay sáu mươi hai tuổi rồi mà sự thấy vẫn cũng như thế.

- Nhân giả! Ông lấy làm lo lắng khi thấy thân thể ông tóc bạc mặt nhăn, khi già khác lúc trẻ. Nhưng cái thấy nước sông Hằng đó có trẻ già thay đổi như thân thể ông không?

- Bạch không! Cái thấy ấy lúc nhỏ cho đến bây giờ đây không sai biệt gì cả.

Phật dạy:

- Nhân giả! Mặt ông tuy nhăn mà tánh thấy (kiến tánh) chưa khi nào nhăn. Hễ cái gì nhăn thì quyết phải biến đổi, còn cái gì không nhăn thì cái ấy quyết định bất biến. Cái gì biến đổi thì phải tiêu diệt, còn cái gì không biến đổi thì vốn bất sinh diệt. Cái đã không sinh diệt thì đâu có bị sinh tử lưu chuyển. Sao ông không tự giác bản tánh bất sinh diệt ấy mà dẫn câu chết rồi mất hẳn của bọn đoạn kiến ngoại đạo để tự nghi hoặc.

Vua Ba Tư Nặc nghe Phật khai thị như thế liền giác ngộ bỏ thân thì thọ thân, chứ không khi nào mất hẳn.

Như một người ngồi trên chiếc đò, đò đi thì thấy là bờ chạy. Cũng như thế, người ta chỉ nhìn mình hoàn toàn với con mắt sanh diệt. Người ta đã tự phủ nhận giá trị của mình vậy.

Ðạo Phật trái lại, lại phát huy cho ta thấy, trong cái thân thể sinh diệt vô thường có cái bản tánh vô thường bất sinh diệt. Ðạo Phật đã phát huy bản tánh ấy bằng cách căn cứ ngay với các giác quan thô cạn chứ không xa xôi đâu khác. Và khi nói đến bản tánh, bất sanh diệt ấy, thì đạo Phật đã dùng vô số danh từ rất cao đẹp.

Thật ra, chúng ta bất lực, tư tưởng hành động bị “Vô minh” chi phối. Là vì chúng ta không tự ngộ bản tánh ấy. Nếu giác ngộ tánh bất diệt trong sanh diệt thì toàn thể sanh diệt là bất diệt vậy.

Và cuộc đời chúng ta sẽ hiện thân của Từ Bi, sẽ rạng ngời ánh Trí Tuệ, nếu chúng ta luôn luôn sống với bản tánh bất diệt trong cuộc đời sanh diệt.

Ba cõi lầm mê tâm tịch tịnh

Một đời sinh tử tánh thường như

Sớm mai thấy nụ hoa hồng nở

Nhẹ gót trần sa mộng tỉnh rồi.

Thích Trí Ðức

Bảy bước thăng trầm^

Một hôm, thanh niên Citta, con trai một nhà luyện voi, đi giữa đường gặp một vị Tỳ Kheo đang khất thực. Nhiều Phật tử đến đảnh lễ đặt vào bát của Tỳ Kheo những thức ăn ngon lành, trong đó có một trái sầu riêng, món mà Citta đặc biệt ưa thích. Anh ta liền tiến đến vị Tỳ Kheo và nói:

- Bạch Đại Đức, Ngài cũng ưa món này sao?

- Ồ thanh niên. Nếu muốn, ngươi có thể lấy đi!

Thanh niên sung sướng cám ơn vị Tỳ Kheo, nhận trái sầu riêng đem về. Dọc đường anh ta suy nghĩ: “Mình lao đồng suốt ngày mới có mà ăn, vậy mà vị Đại Đức thì trông thực là nhàn nhã, khỏi làm gì cả, lại được cúng dường đầy đủ. Hay thay, nếu ta cũng xuất gia để được cúng dường.

Nghĩ thế, thanh niên bèn cạo đầu đắp ca sa đi khất thực, gia nhập một tăng đoàn của đức Phật. Nhưng vì xuất gia với một động cơ không hay ho gì lắm, nên chẳng bao lâu Citta phải hoàn tục vì chàng không chiụ nổi nếp sống khổ hạnh gò bó của Tăng đoàn. Nhưng sự thanh tịnh an lạc của chư Tăng, với khung cảnh trang nghiêm ở vườn Cấp Cô Độc, nơi đức Thế Tôn ngự toạ, vẫn để lại một ấn tượng khó phai trong tâm khảm chàng đến nỗi khi đã hoàn tục, Citta vẫn thường mơ ước trở lại đời tu sĩ. Một hôm gặp con voi khó luyện, chàng trở nên chán nghề của cha, và tìm đến Phật xin xuất gia lại. Đức Thế Tôn chấp thuận cho chàng thế phát. Tu được vài tháng, chàng lại đâm chán, xin hoàn tục. Một lần nữa chàng trở về đời sống tại gia, cứ thế cho đến khi hoàn tục lần thứ năm. Lần này khi trở về nhà, việc đầu tiên chàng định làm là cưới một chị vợ để thay đổi không khí, họa may đời chàng có một chút ổn định nào chăng. Chàng đâm chán cái bệnh ưa thay đổi của chàng, và muốn thay đổi lần chót, do đó chàng cưới vợ.

Đời sống hôn nhân chẳng bao lâu cũng làm cho chàng chán ngấy lên tới cổ. Một đêm kia, chàng trằn trọc không ngủ được, dòm qua thấy chị vợ đang ngủ say, mép tiết ra một đống nước bọt trên gối, bụng mang bầu lớn trướng như một con cá “bong mú” sắp tới kỳ sinh nở, chàng bỗng thấm thía sự dơ uế khốn nạn của dục lạc và lập tức ôm y bát chạy ra đường. Qua năm lần xuất gia rồi hoàn tục, chàng vẫn giữ y bát như người ta giữ cái va li chờ dịp đi xa. Trên đường vắng, đêm khuya thanh tịnh, một mình tiến đến rừng Cấp Đô Độc, bao nhiêu hột giống tốt đẹp chàng đã gieo trong ruộng thức cũng trỗi dậy một hạt, đâm chồi nảy lộc. Chàng chứng được sơ quả Dự Lưu khi đang còn đi trên đường.

Trong lúc ấy, tại vườn Cấp Cô Độc, các thầy Tỳ Kheo sau thời tọa thiền đang ngồi bàn tán về chàng:

- Tên đó lần này nếu còn trở lại, chúng ta nhất quyết đừng cho xuất gia các huynh đồng ý không?

- Đồng ý! Cho y xuất gia chẳng khác nào bắt cóc bỏ dĩa. Y cứ nhảy ra nhảy vô hoài, làm náo động nếp sống thanh tịnh của chúng Tăng.

- Phải đầy! Nhưng mà chư hiền nghĩ sao? Y có còn trở lại nữa không? Chắc y sẽ xấu hổ không trở lại. Năm lần là quá lắm rồi!

- Chúng ta hãy chờ xem!

Đúng lúc ấy, thì Citta ôm y bát tiến vào vườn. Mặt rạng rỡ như trăng rằm, các căn tịch tịnh. Chư Tỳ Kheo không ai bảo ai, đều im lặng khi Citta ngỏ lời xin được nhập Tăng đoàn trở lại. Có nghĩa là họ đã bằng lòng.

Lần thứ sáu xuất gia, Citta nhiệt tâm tu tập và nhanh chóng đạt đến Tứ Thiền, nội tâm định tĩnh. Chàng vô cùng hân hoan, và mong mỏi có dịp để tỏ lộ Thánh quả. Một hôm, vài vị đã chứng A La Hán đang ngồi đàm luận về pháp. Citta cũng tham dự, không ngớt ngắt lời vị Trưởng lão Ma Ha Câu Thi La bảo:

- Này Citta, chú hãy đợi những vị Thượng tọa nói xong cái đã, rồi mới nên phát biểu ý kiến của mình.

Vài vị Tỳ Kheo bênh vực Citta:

- Bạch Thượng tọa, huynh Citta đã đắc pháp nhãn có thể nói lên những gì đã thực chứng. Xin chớ khiển trách y.

- Ta biết y có đạt thiền chứng. Nhưng điều đó không ngăn nổi y sẽ hoàn tục trở lại. Ví như một con bò được buộc chặt vào cái cây thì có vẻ hiền lành an ổn, nhưng nếu thả ra nó sẽ giẫm đạp nát hết ruộng lúa. Cũng vậy, một vị Tỳ Kheo khi đứng trước bậc Đạo Sư hay trước những bậc Thánh, có thể rất khiêm cung, đạo hạnh, nhưng khi thả lỏng y có thể thối đọa, từ bỏ học giới và hoàn tục. Một người có thể chứng đắc bốn thiền, nội tĩnh nhất tâm, và trong khi an trú các thiền chứng này, y khoác lác với mọi người, không thể tự kềm chế y đâm ra ưa khoe khoang thánh quả. Khi y hoan hỷ về chúng, tham đắm chúng, thì chính những thiền chứng ấy đưa y đến chỗ tàn mạt. Vì những cấu uế của tâm rất vi tế, thiền chứng chỉ làm cho chúng lắng xuống chứ không mất. Như khi một đạo quân cấm trại trong rừng, thì vì những tiếng trống, tiếng kèn, ống loa, xe cộ và tiếng người, ta không nghe được tiếng những côn trùng nấp trong cỏ, ta tưởng chúng đã im. Nhưng khi đạo quân nhổ trại đi chỗ khác thì tiếng côn trùng, tiếng dế sẽ nỉ non trở lại như thường.

Về sau, quả nhiên Tỳ Kheo Citta từ bỏ đời sống xuất gia lần thứ sáu. Các Tỳ Kheo hỏi Trưởng lão:

- Có phải Ngài đã biết trước việc này do thiền quán hay nhờ chư Thiên mách?

- Cả hai.

Họ đi đến Phật, kể lại vụ này và tỏ ý tiếc rẻ cho Citta. Nhưng Đức Thế Tôn dạy:

- Không sao, Citta sẽ trở lại.

Một hôm, Citta cùng đi với Pottaphàda một nhà khổ hạnh lang thang, đến hầu Phật để hỏi về pháp. Nhưng lời đức Thế Tôn dạy cho vị khổ hạnh làm chàng rất hài lòng. Chàng bèn xin Phật xuất gia lần thứ bảy, cũng là lần chót. Đức Phật bằng lòng, sau một thời gian ngắn Citta chứng quả A La Hán.

Đức Thế Tôn thuật lại nguyện do vì sao Citta phải bảy lần xuất gia như vậy, mới chứng quả. Nguyên một đời trước thời Phật Ca Diếp, chàng cùng đi với một người bạn xuất gia. Bạn chàng muốn ngỏ ý hoàn tục vì không chịu nỗi khổ hạnh. Thay vì khuyến khích bạn tu hành tiếp tục, Citta lại có tâm xấu xúi giục bạn bỏ tu để bạn bị chê, mình được khen: vì nhân duyên ấy, kiếp này Citta phải chịu sự sỉ nhục vào ra bảy lần trong Tăng đoàn…

Người xuất gia có hai ước vọng:

- Ước vọng gần gũi nhất là:

Chánh tín xuất gia, đồng chơn học đạo. Bất nhiễm thế duyên, thường tu phạm hạnh.

- Và ước vọng cao xa là:

Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.

Như Thủy

(Theo Wheel Pub – 115)

Chim Cú Mèo

Xưa có con chim Cú Mèo làm tổ chung trên một cây với chim Gáy.

Một hôm, Cú Mèo đến từ giã chim Gáy để dọn đi nơi khác, Gáy ngạc nhiên hỏi:

- Bác đi đâu thế?

- Tôi dời nhà sang phương Tây.

- Sao thế? Có việc gì làm trở ngại cho bác? Tôi trông nơi đây sinh sống dễ dàng, mát mẻ, sao bác lại bỏ đi?

Cú Mèo buồn rầu đáp:

- Dân cư vùng này không ưa tôi.

Chim Gáy dịu dàng bảo:

- Này bác ạ! Chỗ thân tình với nhau tôi nói cho bác nghe... sở dĩ người ta không ưa bác là vì tiếng kêu của bác. Nếu sang phương Tây bác cũng kêu như thế, thì người ta cũng ghét bác thôi. Chi bằng bác đổi tiếng kêu thì Ðông Tây gì cũng tốt như nhau, chẳng ai ghét bác nữa đâu mà sợ.

Cú Mèo nghe nói, giận giữ bỏ đi miền Tây ở. Ðúng như lời tiên đoán của chim Gáy. Dân chúng miền Tây ghét bỏ nó, Cú Mèo đâm ra hận đời, nhất định đi vào thâm sơn cùng cốc, lánh xa loàn người, loài vật, mắt trời, mặt trăng...

Vui lên thiên hạ đồng tình

Khóc than bạn sẽ một mình khóc than.

Như Thủy

Phất Già Sa Vương với pháp vô thường

Khi Thế Tôn còn ở đời, có hai ông vua kết bạn thân, một ông tên là Phất Già Sa Vương, một ông là Bình Sa Vương.

Phất Già Sa Vương chưa biết đạo, làm một cây bông bằng thất bảo, đem biếu bạn Bình Sa Vương. Bình Sa Vương đem bông ấy cúng Phật, cầu người cho bạn ông được thấy Phật nghe Pháp và gặp chúng Tăng, mau biết tu hành. Ông cầu nguyện xong bạch Phật rằng: “Con không biết lấy gì đặng tặng lại bạn con cho xứng.”

Phật dạy: “Ông nên viết một quyển kinh “Thập Nhị Nhơn Duyên” mà tặng. Bạn ông được kinh ấy sẽ đọc tụng, hiểu biết tin đạo”. Bình Sa Vương vâng lời Phật dạy, về viết một quyển kinh và thơ riêng gởi cho bạn. Trong thơ ông nói: “Anh có lòng tốt cho tôi cây hoa báu, tôi xin biếu anh quyển Thập Nhị Nhân Duyên, anh nên đọc tụng tìm hiểu nghĩa lý, anh sẽ được hưởng pháp vị và quả báo tốt đẹp, rồi chúng ta dắt tay nhau đến chỗ đồng đạo”.

Phất Già Sa Vương được thơ và sách, đêm ngày đọc tụng suy nghiệm đạo lý, hiểu thấu đạo mầu, ông nhận thấy ngũ dục là gốc rễ khổ não, đã nhiều kiếp mê man vì nó, nay tỉnh ngộ, ngó lại quyền quí danh lợi càng thêm ghê sợ.

Vua bèn mời các quan đại thần giao phó việc nước, nhường ngôi cho Thái tử, rồi xuất gia cạo đầu, mặc áo cà sa, bưng bình bát làm vị Sa Môn, một mình đi đến La Diệt, tìm đến chỗ Phật cầu thọ giới pháp; mới đến ngoài thành vừa trời tối, đến nhà người thợ gốm xin ngủ nhờ một đêm, mai sẽ đi hầu Phật.

Thế Tôn ngự ở tịnh xá, Ngài biết Phất Già Sa Vương sáng ngày mai sẽ bỏ mạng. Phật thương xót cho ông từ xa xôi đến cầu thọ giới nghe kinh mà không kịp, đã bị quỷ vô thường bắt giữ. Phật liền hóa làm một vị Sa Môn cũng đến xin nghỉ nhờ nhà người thợ gốm. Thợ gốm mời hai vị Sa Môn ở chung một phòng. Vào phòng vị hóa Sa Môn trải tọa cụ ngồi, hỏi ông Phất Già Sa: Ông ở đâu đến đây? Thầy ông là ai? Vì nhân duyên gì ông xuất gia? Ông đã thấy Phật chưa?

Ông Phất Già Sa thưa: Tôi chưa được thấy Phật, tôi nghe pháp Thập Nhị Nhân Duyên nên tôi đi xuất gia. Ngày mai tôi sẽ vào thành hầu Phật cầu nghe giới pháp.

Vị hóa Sa Môn bảo: “Mạng người vô thường, nay còn mai mất, nó không hẹn trước với người, không biết ngày nào giờ nào mà định; chỉ nên quán thân này do bốn đại mà thành, chết đi sẽ trả về đất, nước, gió, lửa. Phải giác ngộ thân này tuy có rồi sẽ hoàn không, giả dối hòa hợp sẽ bị tan rã.

Ông nên chuyên cần niệm ngôi Tam Bảo, niệm đức bố thí trì giới, hiểu biết các pháp đều vô thường. Nếu ông tưởng niệm luôn như thế thì được lợi lạc, cũng như thấy Phật vậy. Nếu ông cứ nghĩ ngày mai sẽ đến hầu Phật thì không kịp đâu.”

Vị hóa Sa Môn nói pháp như vậy cho ông Phất Già Sa nghe, ông định ý suy nghĩ, liền chứng quả A Na Hàm.

Phật hiện toàn thân ba mươi hai tướng tốt, phóng hào quang, ông Phất Già Sa vui mừng đảnh lễ. Phật lại dặn dò: Sự vô thường đến ông đừng hoảng sợ.

Ông thưa: Con xin vâng lời Phật dạy.

Vị hóa Sa Môn sáng mai biến mất.

Ông Phất Già Sa một mình đi vào thành tìm đến hầu Phật. Ði giữa đường có con bò mới sinh, nó sợ người ta bắt con, chạy lại húc ông Phất Già Sa vỡ bụng chết. Ông được sanh về cõi trời.

Phật dạy các đệ tử đem xác ông thiêu và xây tháp.

Ngài bảo: Tội ác đã tạo ra đối đầu phải trả. Các ông phải cẩn thận!...

Thích Nữ Ðàm Minh

Quả phụ buồn khăn trắng tiễn chồng đi

Người lặng im như chẳng nói năng gì

Theo vết bánh xe tang vào nghĩa địa

Những cô nữ đang xuân tình tươi trẻ

khóc dở dang số phận nửa chừng xuân.

Oán thù vay trả

Phất Già Sa Vương đi vào thành La Duyệt, giữa đường bị con bò mới sanh, sợ người ta bắt mất con, chạy lại húc ông vỡ bụng chết ngay. Người chủ bò thấy thế sợ quá, vội bán bò cho người khác. Người kia mua bò dắt về định nuôi lấy sữa, vừa dắt về đến nhà lại bị bò húc, người chủ chết luôn. Con người chủ bò nổi giận, giết bò đem thịt bán. Người nhà quê mua đầu bò gánh về, đi được nửa đường mệt, treo đầu bò lên cây rồi nghĩ mát. Bỗng nhiên đầu bò đứt dây rơi trúng anh nhà quê, sừng bò trúng vào bụng anh chết ngay. Trong một ngày ba người bị chết vì một đầu bò.

Bình Sa Vương cho là điềm quái gở. Lo sợ, vội vàng cùng quần thần đi đến hầu Phật. Ðến nơi, vua cung kính đảnh lễ rồi đứng hầu một bên:

- Bạch Thế Tôn, một đầu bò làm chết ba người, việc đó không biết duyên do vì sao? Xin Ngài chỉ dạy cho.

Phật bảo:

- Ðại Vương này, các tội lỗi đã tạo ra, có nguyên nhân rồi phải trả báo, không phải tình cờ mà có.

Vua thưa:

- Xin Ngài dạy cho con biết để tránh điều tội ác.

Phật dạy:

- Trước kia có ba người lái buôn, cùng nhau thuê chung cái nhà của một bà già. Ở được mấy tháng ba người thấy bà già có một mình đau yếu, chờ khi bà đi vắng, ba người rủ nhau lén đi, không trả tiền thuê nhà cho bà. Bà đi chơi về, thấy nhà vắng không có ai, hỏi người hàng xóm mới biết ba người đã trốn đi rồi. Bà vừa giận vừa tiếc tiền, hấp tấp chạy theo cho kịp ba người, khi gặp, bà đòi tiền thuê nhà mấy tháng nay. Ba người xúm nhau mắng thậm tệ, nói tiền nhà đã trả rồi còn đòi chi nữa, ai công nợ chi mụ... Bà cô đơn yếu đuối cãi không lại giận hờn buồn tủi khóc lóc, kêu trời vang đất, rồi bà nguyền rủa thề rằng: “Trời đất quỷ thần làm chứng cho tôi cùng cực vô lộ bị ba người này khinh khi lường gạt, lại mắng nhiếc sĩ nhục. Tôi nguyện đời sau sanh ra chỗ nào, gặp ba người này tôi sẽ trả oán, làm cho mất mạng, ví dầu đặng đạo cũng phải trả nợ này đã.

Phật bảo Bình Sa Vương: Bà già khi ấy là con bò ngày nay, ba người lái buôn thuê nhà xưa là ba người bị bò húc chết ngày nay vậy.

Bình Sa Vương và các vị đại thần nghe Phật dạy ai nấy đều sợ hãi, cung kính đảnh lễ phát nguyện từ nay về sau không dám lường gạt dối trá, gây thù kết oán nữa.

Một lời thề nguyện, không có hình tướng mà không mất, cứ tìm nhau đòi oán trả thù rất đáng ghê sợ, chúng ta cần phải giữ gìn lời nói và hành động vậy.

Thích Nữ Ðàm Minh

Không có một Quả nào mà không có Nhân, cũng như không có một Nhân nào mà không có Quả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/05/2021(Xem: 21297)
Thiền sư Minh Hoằng Tử Dung, Tổ thứ 34 của Thiền Phái Lâm Tế, đến Việt Nam truyền giáo vào cuối thế kỷ 17, đệ tử nối pháp của Ngài là Thiền Sư Thiệt Diệu Liễu Quán, Sơ Tổ của Phái Lâm Tế Liễu Quán tại Việt Nam. Thời Pháp Thoại thứ 240 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Bảy, 29/05/2021 (18/04/Tân Sửu) 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ “Vạn pháp qui nhất, nhất qui hà xứ? (Muôn pháp về một, một về chỗ nào?) “ (Câu Thoại Đầu của Thiền Sư Minh Hoằng Tử Dung trao cho đệ tử Thiệt Diệu Liễu Quán tham cứu trong 8 năm ròng rã) 💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼🌺🍀💐🌼 💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼🌺🍀💐🌼 Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thí
03/05/2021(Xem: 4567)
Sư Giác Phổ định lấy vé cho tại hạ về Huế, nhưng ông bạn “nhong nhong”, buộc phải lên Daklak đi xe với anh em, đâu được ưu tiên biệt đãi thế! 6g chiều vừa xuống sân bay, sư đã đón tại sảnh; Tịnh xá Ngọc Quang lẳng lặng trong màn đêm; đại hồng chung tiễn nhân sinh vào cõi mộng.Bận rộn bao việc để chuẩn bị mai lên đường, thế mà đích thân sư bê lên ly bột.
14/04/2021(Xem: 10682)
Đã hơn 45 năm kể từ 1975, nhắc lại chuyện vượt biên quả là xưa như trái đất, xưa quá rồi diễm, nhiều người chẳng muốn nghe, đôi khi còn trách, chuyện qua rồi hãy cho vào dĩ vãng nhắc lại làm gì cho thêm buồn, “quá khứ đã qua, tương lai chưa đến, hãy nghĩ và sống với hiện tại”. Thế nhưng đâu ai hiểu cho rằng, hiện tại của tôi bây giờ chính là phải viết bài cho ngày 30/4 để đăng báo, mà 30/4 vấn đề tuy cũ kỹ nhưng muôn thuở vẫn luôn có giá trị vì đó là lịch sử và chuyện vượt biên cũng đóng góp trong phần lịch sử đó. Luẩn quẩn là như thế. Và biết đâu, giữa khi mọi người đã quên thì tôi nhắc lại cho mọi người nhớ, và biết đâu giúp các thế hệ sinh sau đẻ muộn hiểu chút ít về lịch sử nước nhà trong giai đoạn đau thương của đất nước, thống nhất lãnh thổ nhưng không thống nhất lòng người đã để lại hận thù, chia cách không biết khi nào mới hàn gắn được và là nguyên nhân tại sao cha mẹ ông bà chúng lại lưu lạc xứ người và ra đi làm sao. Cây có cội, nước có nguồn, là con người ai cũng muốn biết c
03/02/2021(Xem: 4154)
Sinh ra tại Edinburgh (Scotland) nhưng Scott Neeson đã chuyển tới Australia định cư khi mới 5 tuổi. Ông là con trai của một lao công và một quân nhân. Năm 17 tuổi, Scott quyết định bỏ học và sống dựa vào tiền trợ cấp thất nghiệp. Nhờ chương trình hỗ trợ của chính phủ, ông được nhận vào vào một rạp chiếu phim là nhân viên kỹ thuật phòng chiếu. Câu chuyện nhẽ ra sẽ kết thúc tại đây nếu không phải Scott là người khá tham vọng và tràn đầy nhiệt huyết. Người đàn ông này kiên trì leo lên từng bậc thang trong ngành điện ảnh, từ một nhân viên phát hành phim đến nhân viên kinh doanh phim. Cuối cùng, mọi công sức của Scott cũng được đền đáp khi ông được bổ nhiệm là Giám đốc Chi nhánh Australia của hãng 20th Century Fox (nay là 20th Century Studios thuộc Disney).
30/01/2021(Xem: 6124)
Thời gian gần đây có khá nhiều nhà văn quay về với đề tài lịch sử. Sự đi sâu vào nghiên cứu cùng những trang viết ấy, họ đã tái hiện lại một triều đại, hay một giai đoạn lịch sử với góc độ, cái nhìn của riêng mình. Tuy nhiên, không phải nhà văn nào cũng thành công với đề tài này. Gần đây ta có thể thấy, Hoàng Quốc Hải với hai bộ tiểu thuyết: Tám triều nhà Lý, và Bão táp triều Trần, hay Hồ Qúy Ly của Nguyễn Xuân Khánh…Và cách nay mấy năm, nhân kỷ niệm lần thứ 40, ngày thành lập Báo Viên Giác (Đức quốc) Hòa thượng Thích Như Điển đã trình làng cuốn tiểu thuyết lịch sử: Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa. Thật ra, đây là cuốn (tiểu thuyết) phân tích, lời bàn về lịch sử thì chính xác hơn.
28/01/2021(Xem: 7259)
Hòa thượng họ Hồ, húy Đắc Kế, Pháp danh Nguyên Công, tự Đức Niệm, bút hiệu Thiền Đức, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ bốn mươi bốn, sinh năm Đinh Sửu (1937) tại làng Thanh Lương, phủ Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận, nay là xã Chí Công, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Nhờ túc duyên tiền kiếp, nên mặc dù không ai khích lệ thúc đẩy, Ngài vẫn một mình cố công tìm đường hướng về với đạo lý giác ngộ. Khởi đầu, Ngài xin xuất gia với Hòa Thượng Thích Minh Đạo tại chùa Long Quang, Phan Rí năm 13 tuổi. Sau đó, trên đường tầm sư học đạo, Ngài cầu học với Hòa thượng Trí Thắng chùa Thiên Hưng và Hòa Thượng Viện chủ chùa Trùng Khánh ở Phan Rang, Hòa Thượng Thiện Hòa ở chùa Ấn Quang, Sàigòn, và Hòa Thượng Trí Thủ ở Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang. Vào năm 1962, Ngài tốt nghiệp Cao Đẳng Phật giáo tại Phật Học Đường Nam Việt chùa Ấn Quang Sàigòn. Song song với Phật học, Ngài cũng c
27/01/2021(Xem: 14721)
Đức Đa Bảo Như Lai 🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng: từ 6.45am, Thứ Sáu, 17/07/2020 (26/5/Canh Tý) Giải thích Nghi Thức Đảnh Lễ Tam Bảo do Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Thủ (1909-1984) biên soạn và hành trì trong suốt cuộc đời của Ngài. 26/ ĐỨC ĐA BẢO NHƯ LAI Nhất thiết vô niết bàn Vô hữu niết bàn Phật Vô hữu Phật niết bàn Viễn ly giác sở giác Nhược hữu nhược vô hữu Thị nhị tắc câu ly. Nhất tâm đảnh lễ Quá khứ cửu viễn thành Phật Đa Bảo Như Lai. (1 lạy) Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia)
25/01/2021(Xem: 28582)
Đức Phật Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na 🌼💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼 Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học bài kệ thứ 23, đảnh lễ Đức Phật Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na, trong Nghi Thức Đảnh Lễ Tam Bả Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng: từ 6.45am, Thứ Ba, 14/07/2020 (24/5/Canh Tý) Giải thích Nghi Thức Đảnh Lễ Tam Bảo do Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Thủ (1909-1984) biên soạn và hành trì trong suốt cuộc đời của Ngài. 23/ĐỨC PHẬT PHÁP THÂN TỲ LÔ GIÁ NA Chơn tánh hữu vi không Duyên sanh cố như huyễn Vô vi, vô khởi diệt Bất thật như không hoa. Nhất tâm đảnh lễ Thường tịch quang độ thanh tịnh diệu pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật. Nơi thể tánh chân như, Pháp hữu vi không thật, Duyên sinh, nên như huyễn; Vô vi không sinh diệt, Cũng không phải thật pháp, Như hoa đốm hư không. Một lòng kính lạy đức Phật Tì Lô Giá Na, Pháp Thân thanh tịnh nhiệm mầu, cõi Thường-tịch-quang. (1 lạy) Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thí
20/01/2021(Xem: 7377)
Bồ Tát Hộ Minh khi ở trên cung trời Đâu Suất, đã quan sát thấy nơi dục giới cõi Ta bà, nhất là nơi Ấn Độ với rất nhiều mối Đạo, phân chia giai cấp trầm trọng, để hòng nô dịch, bóc lột và cai trị người dân, họ chạy theo Ngũ Dục (Tài, sắc, danh, ăn, ngủ) khiến con người bị thiêu đốt bởi lục dục thất tình tiêu cực của chính bản thân mình. Vì vậy, lòng bi mẫn vô lượng thúc giục Bồ Tát Hộ Minh đản sinh vào hoàng tộc Tịnh Phạn vương (trở thành Thái Tử Tất Đạt Đa). Với cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh, nhưng rồi cũng vì lòng Từ bi khi thấy, biết được “sanh. già, bệnh, chết” đang hoành hành gây khổ đau cho thế gian này, nhưng chưa ai giải cứu được, cả vua cha cũng đành bất lực. Ngài đành giả từ hoàng cung, để vào rừng sâu “tìm chân lý”. Mục đích đặc biệt là để “khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến” tức là “Mở bày cho mọi người sáng tỏ được tri kiến Phật”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]