Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

09. Bậc đại chiến thắng

24/10/201202:50(Xem: 8651)
09. Bậc đại chiến thắng

THANH GƯƠM BA-LA-MẬT
Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Bậc đại chiến thắng







“Ta đã chiến thắng! Ta đã chiến thắng!”

Tiếng la từ bờ sông Rohini vút thẳng lên mây. Đức vua Suvera ngạc nhiên cho đoàn hộ tống dừng chân lại. Sao lạ? Ai là kẻ hô chiến thắng trong lúc ta và đoàn quân đang rầm rộ trở về với khúc khải hoàn ca?

“- Ta đã chiến thắng, ta đã chiến thắng!”

Tiếng la từ bờ sông Rohini lại vút thẳng lên mây.

- Kỳ lạ chưa? Đức vua Suvera tự nghĩ: Tiếng hô kia không những hùng dũng mà còn toát ra sự an lạc như sự reo ca của ngàn chiếc lá sau ngày tháng đông miên khi ánh mặt trời đầu tiên vừa ló dạng. Hay là ai đã chế nhạo sự chiến thắng của ta? Ồ, mà chế nhạo sao được. Đúng là một trăm lẻ một đức vua đã run rẩy quỳ mọp dưới chân ngựa của ta; và đúng là bốn vạn viên võ tướng lừng danh khắp mấy phương trời đã cởi áo giáp quy hàng trong lửa đỏ. Đoàn quân của ta hiên ngang đầy máu và bụi. Đoàn quân ta hùng dũng đạp qua thành trì đổ nát, sông núi và xác người. Cỏ đã không mọc được dưới chân ngựa của ta. Vậy thì đúng là phần ta mới xứng gọi là chiến thắng, ta đã chiến thắng dưới gầm trời này. Thế mà, thằng nào...

- Tiểu tốt, lũ tiểu tốt – Đức vua Suvera quát tả hữu, rung đùi rồi ghếch chân trên mình con ngựa nòi giống tối thượng. Toán quân hộ vệ được được vua thích ý gọi là “lũ tiểu tốt” dạ rân bốn phía – Tới đằng kia sông, trong nháy mắt lôi cổ cái thằng người nào vừa hô to: Ta đã chiến thắng, ngu ngốc và phạm thượng ấy!

Không bao lâu, không biết là chừng mấy cái nháy mắt, người ta dẫn về trình diện với đức vua một nông dân bình thường như trăm ngàn nông dân hạ liệt trong quốc độ của ông, chỉ có đôi mắt là ngun ngút toát ra tin lửa tự tin và no đầy hoan lạc.

- Cái “thằng người” dơ dáy kia! Đức vua bốc hơi đằng miệng, giận dữ – Phải ngươi là kẻ lếu láo đã hô to: “Ta đã chiến thắng” đầu kia sông Rohini?

- Phải – nông dân ấy gật đầu mạnh mẽ – Tâu đức quyền uy cao cả!

Thấy sự gật đầu quả quyết của thằng dân tôm tép bé mọn, đức vua Suvera bất giác cất tiếng cười to như xé rách cả bầu trời.

- Thiệt là đồ xuẩn ngốc. Vua lại quát – Này thằng người kia, ngươi có thấy đoàn quân bách chiến vô địch của ta? Đấy, ngươi cứ đưa mắt nhìn thử xem?

Người nông dân rách rưới nghèo nàn nhìn gươm giáo, ngựa voi, cờ xí nhấp nhô đến mãi cuối chân trời, thấy rõ là một đoàn quân đại binh chiến thắng khải hoàn đang trở về từ những biên địa xa xăm. Nhìn xong, y vẫn lặng lẽ không nói gì, khẽ ngước nhìn đức vua rồi lại nghiêng đầu hờ hững.

- Sao? Vua đắc chí hỏi – Vậy thì có phải đáng lý ra ta mới là kẻ được quyền hùng dũng hô to: “Ta đã chiến thắng!”

Người nông dân từ từ quay lại, lắc đầu:

- Đức vua không thể là kẻ hùng dũng hô to: “Ta đã chiến thắng!”

Vua Suvera tưởng tai mình nghe lầm, dồn dập hỏi lại:

- Sao? Ngươi nói sao? Ta không phải là kẻ chiến thắng ư?

- Vâng! Người nông dân nói chậm rãi – đức vua là kẻ chiến thắng, tuy thế, chưa phải là kẻ xứng đáng để hùng dũng hô to: “Ta đã chiến thắng”. Chính tôi mới là kẻ xứng đáng!

- Thần thánh ôi! Có nghe gì không? Đức vua Suvera bất giác cười sặc sụa, vỗ mạnh vào bao kiếm rồi gọn gàng nhảy xuống mình ngựa, lại cất giọng ngọt ngào – Hãy nói đi, kẻ nông dân quý mến, kẻ nông dân thân ái à! Hãy giải thích cho rõ ràng. Nếu không – đôi mắt đức vua lửa, ánh kiếm nháng lên như con rắn xanh – Nếu không giải thích được, thì cái đầu của nhà ngươi sẽ lăn lóc như trái dừa khô… mà phọt máu! Như trái dừa khô mà phọt máu!

“Như trái dừa khô mà... phọt máu!” Đức vua lặp lai hai lần, rõ ràng là y thích cái câu đó lắm. Tuy thế người nông dân rách rưới nghèo nàn nhìn đức vua một cách bình thản, chứng tỏ y không sợ hãi chút nào, chứng tỏ cái đầu y không phải là trái dừa khô mà... phọt máu!

Bây giờ, người nông dân đang ngồi trên phiến đá, xem như không có ai, nói rằng:

- Kẻ thực sự dám hùng dũng hô to: Ta đã chiến thắng, thì kẻ đó không còn sợ ai, đấng quyền uy cao cả ạ! Ngài tưởng rằng với sự đe dọa của gươm đao mà làm cho tôi khiếp đảm sao? Không bao giờ! Ngay đối với Yama, với Diêm Vương, sự chết, hắn vẫn coi khinh! Vì hắn là kẻ CHIẾN THẮNG THẬT SƯ, TRỌN VẸN và VĨNH CỬU.

Thấy thần sắc trầm tĩnh của người nông dân, vua Suvera chột dạ, tay kiếm buông lơi. “Ồ, hắn có cái gì đây”. Đức vua tự nghĩ: “Hắn phải có cái gì đây chứ!”

Đức vua Suvera cố dằn sự tức giận:

- Vậy thì ngươi hãy nói tiếp mau đi.

- Ta sẽ nói – người nông dân gật đầu – nhưng đức vua cho tôi được hỏi, đức vua chiến thắng cái gì vậy?

Cố nhẫn nại, vua nói:

- Ngựa của ta không dừng vó, chiến sĩ của ta không cởi giáp, cứ thế từ Hy Mã Lạp Sơn đến những vùng đất rộng lớn mênh mông Gandhàra, Sàrnà phương nam Ma-kiệt-đà, hạ lưu sông Hằng, đến thượng lưu qua các xứ man di mọi rợ Tây và Tây Bắc Ấn Độ; ta đã làm cho mấy ngàn thành trì nên bình địa, thu phục một trăm lẻ một đức vua và mấy chục ngàn viên dũng tướng. Như vậy từ mặt trời mọc đến mặt trời lặn là con dân của ta. Đấy gọi là chiến thắng, bạn thân mến, cuộc chiến thắng oai hùng, cổ kim chỉ có một ta!

Người nông dân thở dài:

- Chiến thắng trên máu và xác người, chiến thắng trên sự nhục nhã và phẩn hận của kẻ khác. Thế nhưng, tâu đức quyền uy, cái chiến thắng ấy, ngài mang theo trên người được bao lâu? Mấy trăm năm? Mấy ngàn năm?

- Đâu nhiều vậy, đức vua ngạc nhiên nói – Ít nhất là đến lúc ta còn cầm cương ngựa được!

- “Đâu nhiều vậy, đến lúc ta còn cầm cương ngựa được”. Tự miệng đức vua nói thế chứ. “Đâu nhiều vậy đến lúc ta còn cầm cương ngựa được”. Nghĩa là chiến thắng ấy có giới hạn, không trọn vẹn và không vĩnh cửu!

Đức vua chợt “à” lên một tiếng, đôi mắt lóe lên vừa ngạc nhiên vừa lạ lùng. Người nông dân lại tiếp:

- Và còn nữa, thưa đấng quyền uy! Sự hùng mạnh của đức vua sẽ không còn bao lâu nữa. Vì tự miệng đức vua đã nói ra, khi ta còn cầm cương ngựa được. Như vậy sẽ đến một lúc, điều đó sẽ xảy ra. Và đoàn quân bách chiến vô địch sẽ không phải là bách chiến vô địch mãi!

Đức vua Suvera không nói gì. Sao lạ? Đức vua tự nghĩ, hắn nói cũng có phần đúng đấy chứ, có ai là kẻ chiến thắng một trăm năm, ngàn năm? Già yếu, sự chết, ồ!

- Cha mẹ, chồng con những người đã chết, dòng họ những dân tộc chiến bại sẽ đợi đến lúc đức vua không còn cầm cương ngựa được, quân binh đức vua suy yếu, họ sẽ liên kết lại, vùng lên, một trăm lẻ một quốc độ sẽ tràn vào một lượt như cơn bão lửa. Và thưa đức vua, họ sẽ rần rộ, ào ào, như lốc cuốn tấn công vây chặt thành trì của đức vua đến nỗi môt con kiến cũng không thể thoát được. Và như vây, thưa đức vua, khi ấy đức vua có còn hùng dũng hô to: “Ta đã chiến thắng” nữa không?

Cứ để cho đức vua thảng thốt, bàng hoàng, người nông dân đứng dậy, buông từng tiếng một:

- Chiến thắng ít chục năm ấy là chiến thắng giới hạn. Chiến thắng mà không mang theo được từ đời này qua kiếp kia, ấy là chiến thắng phù du. Chiến thắng mà có lúc sẽ chiến bại, vậy mà đức vua dám nói mình là kẻ được quyền hùng dũng hô to: “Ta đã chiến thắng!”

Đức vua Suvera đứng bất động nhìn đăm đăm về phía sông Rohini. Lâu lắm, đức vua quay lại lắp bắp:

- Ta... ta...

Đức vua không nói được, lấy khăn lau mồ hôi, thở ra một hơi dài rồi nói:

- Thế thì ngươi mới là kẻ chiến thắng thật sự? Đời đời? Và trọn vẹn ư?

- Phải rồi. Không những chỉ có ta mà còn những bậc tối thượng hơn thế nữa. Đó là Đức Tôn Sư của ta, các vị Thánh đệ tử, các vị Sa-môn sống đời thoát tục. Chỉ có những vị ấy mới dám hùng dũng hô to: “Ta đã chiến thắng”.

“Điều mới lạ này ta chưa hề được nghe qua. Kẻ nào vậy? Những cái gọi là Đức Tôn Sư, Thánh đệ tử và những Sa-môn, họ là những ai vậy?” Nghĩ thế, đức vua nói:

- Chưa kể đến cái gọi là Đức Tôn Sư, Thánh đệ tử vội, ta chỉ hỏi ngươi, ngươi chiến thắng như thế nào? Tuần tự kể ta nghe.

Người nông dân kể:

- Một thời, với cái cuốc mẻ và hạt giống, ta trồng một thửa ruộng, lúa lên xanh, hạt chín vàng, thế nhưng ta vẫn không đủ no, áo vẫn không đủ mặc. Hôm kia, ta thấy một sa môn khất thực – với chiếc y vàng trang nghiêm, chói sáng, y đi từ nhà này sang nhà kia. Ta thấy nào bánh, cơm, thục tô, đề hồ, sữa lần lượt được người ta bỏ vào bát bằng hai tay chắp lại. Ta nhìn cái cuốc mẻ, tự nghĩ: “Hãy chiến thắng cái cuốc”. Thế là ta quẳng cái cuốc mẻ vào trong xó nhà và đi theo đoàn sa môn. Ta cũng mặc y vàng, được ăn no, nhưng ta vẫn nhớ cái cuốc mẻ. Nhớ không chịu được, ta bèn cởi y, bỏ bát, vội chạy về xó nhà lấy cái cuốc ra. Ta sung sướng cuốc đất, trỉa hạt giống. Ôi! Thế là ta đã không chiến thắng được cái cuốc mà cái cuốc lại chiến thắng ta! Lúa lại lên xanh, lúa lại chín vàng. Nhưng cơm vẫn không đủ no, áo vẫn không đủ mặc, ta không được an lạc! “Hãy chiến thắng cái cuốc! Hãy chiến thắng cái cuốc!” Lần thứ hai, ta nghĩ. Nếu ngươi không chiến thắng cái cuốc ngươi sẽ cơ hàn. Do sự cơ hàn, ngươi sẽ không an lạc. Lần này cái cuốc lại được ta quẳng sau nương rồi đi theo đoàn sa môn. Hàng ngày sau khi khất thực xong, ta ngồi thiền định, cái cuốc lại hiện ra. Ôi! Cái cuốc thân yêu. Ta nhớ cái cuốc quá, nhớ không chịu được, ta bèn bỏ y bát, chạy về nương lấy cái cuốc, ta lại sung sướng cuốc đất, trỉa hạt giống. Ôi, thế là ta bị chiến bại một lần nữa. Hai lần chiến bại phải thế không đại vương?

- Phải rồi, đức vua gật, ngươi đã không chiến thắng.

Người nông dân đi tới đi lui.

- Đức vua nói đúng xiết bao. Ta đã không chiến thắng, ta, hai lần chiến bại. Mà không những thế đâu, nó lại đánh bại ta liên tiếp, trận này qua trận khác. Lần thứ ba, ta quẳng ở xó vườn, lần thứ tư quẳng dưới ao, trong bùn, lần thứ năm ta chôn dưới cội cây. Ta liên tiếp bị đánh bại sáu lần một cách nhục nhã.

Người nông dân nói thế xong, im lặng đột ngột.

Đức vua Suvera hỏi:

- Ngươi chưa nói rõ lý do và trường hợp chiến thắng?

- Ta sẽ nói, tâu đức vua. Lần thứ bảy, ta tự nghĩ: Ta chiến bại vì ta còn thấy cái cuốc, còn tìm ra cái cuốc. Vậy thì ta làm sao cho cái cuốc mất tích. Thế rồi, sáng nay, ta đang đứng tại bờ sông Rohini, định quăng cái cuốc xuống sông. Nhưng mỗi lần định quăng, ta cứ chùn tay lại. Ta đăm đăm nhìn cái cuốc. Ta không nỡ. Hồi lâu, ta bặm môi lại, định quăng, nhưng lại thối lui. Ta thương yêu cái cuốc quá đi. Sau rốt, một ý chí bốc lên bừng bừng mãnh liệt, ta nhắm mắt lại, xoay người ba vòng, lấy hết sức mình, ta quăng cái cuốc đi. Khi mở mắt ra, ta không còn nhìn thấy cái cuốc ở phương nào nữa. Dẫu có muốn tìm thì cũng chẳng biết đâu mà tìm. Sung sướng quá, một niềm hỷ lạc dâng lên no đầy cả tâm hồn, muốn bay bổng lên cả mấy từng trời. Ta hét to như tiếng sấm nổ tận thế: “Ta đã chiến thắng, ta đã chiến thắng.”

Đến ngang đây, người nông dân quay qua đức vua:

- Như vậy thì trường hợp này, ta có thể hùng dũng hô to: “Ta đã chiến thắng”?

- Có thể được - đức vua gật.

Người nông dân mỉm cười:

- Chỉ ngay cái chiến thắng ấy cũng đã tối thượng mười sáu lần hơn chiến thắng của đức vua rồi. Huống hồ ta còn cái chiến thắng khác.

- Ngươi hãy nói cái chiến thắng khác đi, vì chiến thắng kia tầm thường xiết bao. “Chiến thắng cái cuốc”, ngươi nói vậy mà không hổ thẹn ư?

- Đức vua tưởng thế! Chiến thắng kia không tầm thường chút nào!

- Hãy nói ta nghe.

- Dạ vâng, ta sẽ nói. Trước khi nói ta xin được hỏi: Đức vua yêu cái gì nhất?

Đức vua Suvera ngần ngừ giây lát. Tự nghĩ, ồ, ta yêu cái gì nhất nhỉ: Hoàng hậu? Cung nga thể nữ? Châu báu trần gian? Ồ, ta có yêu, nhưng yêu ít thôi, không thể gọi là yêu nhất được. Quyền uy, phải rồi. Quyền uy...

Đức vua nói:

- Ta yêu quyền uy nhất.

Người nông dân mỉm cười:

-Đức vua thì yêu quyền uy nhất, còn ta là người nông dân, ta yêu cái cuốc nhất. Tâu đức vua, nhưng ta đã dám quẳng cái ta yêu nhất, ấy là cái cuốc; còn đức vua có dám quẳng cái đức vua yêu nhất, là cái “quyền uy”? Được chăng? Đức vua đã từng bao giờ quẳng cái quyền uy trong xó nhà? Ngoài nương? Cuối vườn? Dưới ao? Ngoài nghĩa địa? Dưới cội cây? Dưới sông? Cả thảy 7 lần như thế chưa?

Đức vua Suvera bối rối:

- Ta... ta... chưa hề nghĩ tới.

Người nông dân cười to nhưng vẫn dịu dàng:

- Vậy thì rõ ràng ở phương diện này thôi, đức vua đã thua ta rồi!

Càng lúc càng thấy nhiều điều mới lạ. Đức vua thấy thú vị trong câu chuyện với người nông dân, nên mỉm cười:

- Thôi được. Ta cho ngươi được phép hơn ta. Nhưng mà “chiến thắng cái cuốc”. Ôi sao mà nghe nó kỳ thế?

- Không kỳ đâu – người nông dân trang nghiêm – Nhờ quẳng cái “mình yêu nhất”, ta chợt bừng lên một ánh sáng. Nhờ ánh sáng này, ta thấy rõ một điều kỳ diệu…

- Ngươi cứ nói – Đức vua hối hả, tò mò – Cái gì kỳ diệu?

- Cái kỳ diệu ấy có thể chưa cần nói cho đức vua hay. Nhưng rõ ràng sau khi thấy điều kỳ diệu, không những ta hô: “Ta đã chiến thắng” mà còn hơn thế nữa, ta hô to: “Ta vĩnh viễn chiến thắng”!

Đức vua cau mày:

- Vĩnh viễn?

- Phải rồi – Người nông dân nhìn chăm vào đức vua – này tâu Đại vương! Đại vương là kẻ chiến thắng giới hạn, tạm thời, phù du, chiến thắng rồi phải bại. Còn ta là kẻ chiến thắng vô hạn, vượt không gian, vượt thời gian, vĩnh viễn chẳng bao giờ chiến bại nữa. Vậy thì đại vương còn dám hô: “Ta đã chiến thắng” trước mặt ta?

- Ta không cần biết điều ấy – Đức vua nói như gắt – Ta chỉ cần biết cái gì là vĩnh viễn, cái không còn chiến bại, cái vượt không thời gian!

- Kẻ đã chiến thắng, vĩnh viễn chiến thắng sự chết, khổ đau – là kẻ chiến thắng trọn vẹn, vượt không, thời gian, tâu đại vương!

Đức vua Suvera nín lặng. Mồ hôi toát ra, đứng bất động như trụ đá giữa trời. Lâu lắm đức vua lẩm bẩm: “Dẫu ta có chiến thắng cả ngàn quốc độ, chiến thắng quả địa cầu, chiến thắng thiên giới thì khổ đau và sự chết vẫn đánh bại ta. Thế mà người nông dân này lại đánh bại được khổ đau và sự chết!”

Đức vua thốt lên, vừa hân hoan vừa cảm phục:

- Thật là Bậc Đại Chiến Thắng!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 3911)
Khi tơi đang dịch “Nhân Kiếp và Tai Kiếp” (Human Life And Problems, do hịa thượng tiến sĩ K. Sri Dhammananda) vào giữa tháng 09/2001 tại Toronto thì bất ngờ được biết thầy Thích Tâm Quang bên Mỹ đã dịch xong với tựa đề là “Các Vấn Đề Của Xã Hội Hơm Nay” (web www.budsas.org)
29/03/2013(Xem: 10644)
Truyện “Quan Âm Thị Kính” không rõ xuất hiện từ thời nào và do ai sáng tác ra. Thoạt tiên truyện là một khúc hát chèo gồm nhiều đoạn, với ngôn từ rất bình dị và tự nhiên, rõ ràng là một khúc hát của dân quê, của đại chúng. Về sau mới có truyện thơ “Quan Âm Thị Kính” xuất hiện, được viết bằng thể thơ “lục bát”, mang nhiều ý nghĩa thâm thúy của cả đạo Nho lẫn đạo Phật. Người ta phỏng đoán rằng tác giả chắc phải là một người có học thức.
29/03/2013(Xem: 16753)
Trăm năm trong cõi người ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Lạ gì bỉ sắc tư phong, Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Cảo thơm lần giở trước đèn, Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh.
29/03/2013(Xem: 9170)
Chuyến hành hương Thái Lan và Nhật Bản bắt đầu từ ngày 22 tháng 10 đến mùng năm tháng 11 năm 2012, vào một sáng mùa thu với nắng vàng ươm và se se gió lạnh. Có ai biết con số ghi tên tham dự chuyến hành hương Nhật Bản này lên đến bao nhiêu không? Trước giờ khóa sổ vào đầu tháng 10 là hơn một trăm vị, sau rút lui từ từ để dừng lại con số 85 với 14 quốc gia trên thế giới. Một con số đáng ngại trong lịch sử đi hành hương của quý Thầy.
20/03/2013(Xem: 3261)
Tác giả sinh năm 1937, 63 tuổi, hiện cư ngụ tại Worcester, Massachusetts. Công việc: Technician hãng điện tử ở Mass. Sau đây là bút ký về California lãnh Giải Thưởng do ông Luận viết. Bài đã phổ biến trong sách VVNM 2001, nhưng “mất tích” trên Việt Báo Online. Xin mời cùng đọc lại. Hình trên, từ trái: Thượng Nghị Sĩ California, Ông Joe Dunn và các viên chức dân cử khai mạc cuộc họp mặt. Phía trái là nữ nghệ sĩ Kiều Chinh. Phía mặt là cô Leyna Nguyen của truyền hình KCAL9.
19/03/2013(Xem: 10339)
Tập truyện “ Làng Cũ - Người Xưa” của Tiền Vĩnh Lạc (Australia) .Sách dầy 216 trang, bìa cứng 4 màu. Bìa trước cảnh nhóm chợ chồm hỗm ở làng quê tỉnh Trà Vinh. Bìa sau hình xe thổ mộ, ngưa kéo, tác giả gọi là “xe kiếng”? Nội dung gồm nhiều truyện ngắn, hồi ký, tài liệu quý giá...cùng nhiều kinh nghiệm sống viết ra ý chừng muốn khuyên răn con cháu, sách đọc thú vị và cần thiết để làm tài liệu nghiên cứu. Sách không bán, in để tặng . Ai cần xin gọi 618-8932- 3912
10/03/2013(Xem: 3113)
Nước Xá Vệ có cô gái nghèo tên Nan Đà, thân thế cô độc thân, sống bằng nghề ăn xin. Bấy giờ, cô thấy các vị vua chúa, quan đại thần, trưởng giả cúng dường Phật và chư Tăng, cô tự nghĩ: “Ta mắc tội báo gì mà sinh vào nhà bần tiện như thế này nên không thể cúng dường đấng phước điền?”. Cô tự hối trách lấy mình.
04/03/2013(Xem: 5595)
Theo lời Hòa Thượng trưởng lão Huyền Tôn kể rằng, những ngày Hòa Thượng còn ở quê nhà, nơi Tổ đình Thiên Ấn – miền Trung, có một chú sa di tên Diệu Mãn. Thường nhật Chú chỉ làm công việc quét chùa. Chú người hiền lành, ít nói, tánh tình ngồ ngộ. Đặc biệt trong chúng, ai nhờ việc gì đều hoan hỷ làm ngay. Cũng chính vì vậy, chú thường bị quí sư huynh đệ la rầy, sao đang làm việc này lại bỏ đi làm việc kia… Tuy vậy, nhưng lúc nào chú cũng hoan hỷ, không ai thấy chú câu chấp việc gì bao giờ.
20/02/2013(Xem: 16577)
Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát (trọn bộ 03 tập) do HT Thích Như Điển dịch Việt: Năm 2007 khi chúng tôi đang nhập thất tại Úc Châu thì có một Phật Tử tên là Huỳnh Hiệp từ Hoa Kỳ có liên lạc qua bằng E-mail cho Thầy Hạnh Tấn và nhờ tôi phiên dịch tác phẩm "Những mẩu chuyện linh ứng của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát tại Fuchù - Nhật Bản“ từ tiếng Nhật sang tiếng Việt. Tôi bảo cứ gởi một số chuyện tiêu biểu sang Úc, tôi dịch thử. Nếu đồng ý với cách dịch ấy thì tôi sẽ tiếp tục. Sau một tuần lễ, tôi gởi trở lại 3 chuyện đầu đã dịch của quyển một cho Phật Tử nầy và anh ta rất hoan hỷ và nhờ tôi dịch tiếp cho đến hết quyển sách. Tôi trả lời rằng: "Tôi rất sẵn sàng; nhưng tôi rất ít thì giờ; khi nào xong tôi chưa biết; nhưng tôi sẽ cố gắng. Đồng thời việc đánh máy sẽ giao cho các anh chị em thực hiện". Cầm quyển sách trên tay độ 400 trang A4 thấy cũng hơi nhiều; nhưng thôi, cứ cố gắng vậy. Ông bà mình thường nói: „Kiến tha lâu đầy tổ“ quả câu nầy chẳng sai chút nào.
01/02/2013(Xem: 8540)
Tuổi Hồng Con Gái là tác phẩm đầu đời của tôi được viết vào năm 1980 cùng thời gian với tấm ảnh ngoài bìa sách. Tuy lúc đó sống ngay trên quê hương Việt Nam với dân số đông đảo mấy chục triệu người nhưng xung quanh tôi, vì hoàn cảnh hết sức đặc biệt, tôi không có lấy một người bạn, một người thân để tâm tình những lúc vui, buồn trong cuộc sống.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]