Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11. Ma Không Đầu

01/11/201204:11(Xem: 8243)
11. Ma Không Đầu
NGƯỜI TRỒNG HOA VÀ CHÀNG TU SĨ
Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Ma Không Đầu




Ở tại Phong Trần huyện, Nam Bình thôn, có anh học trò nghèo họ Trương tên Tam, học giỏi mà lận đận lao đao về đường khoa cử.

Trương sinh có người bạn đồng khoa thương yêu nhau như ruột thịt. Người ấy họ Lý tên Tứ, học không giỏi nhưng gặp thời. Niên hiệu Minh Mạng thứ ba, nhờ tài chạy chọt khôn khéo nên Lý đã được thăng tri phủ trấn nhậm Nghệ An, còn Trương thì vẫn cái điều ta đây là:

“Tay trắng vẫn cứ nòi quân tử

Khăn điều nào đáng mặt phong lưu!

Mọi người khuyên Trương nên bỏ kinh sử để theo đường doanh nghiệp thì Trương cười to mà đáp rằng:

- Cổ nhân có biết bao kẻ vác lều vác chõng mấy chục năm ròng rã mà chưa qua khỏi cái tam trường? Có biết bao nhiêu kẻ “thập niên đăng hỏa” mà biết chắc là sẽ đắc chí công hầu khanh tướng? Do lai, tất cả đều không vì chữ thời và chữ mệnh đó ru? Trương mỗ này, xuân thu mới bốn chục, còn hơn cái lão Bạch Lý Hề kia, thì lo gì bước hoạn đồ không ngựa xe áo mão, đem sức tài mà thi thố Hàn, Lương? (Hàn Tín, Trương Lương)

Thấy Trương tuy ngông nghênh nhưng văn hay chữ tốt, lại có chí lớn nên mọi người không lấy đó làm chuyện tiếu đàm.

Cha mẹ Trương mất sớm, anh em không có, chàng lại không nghĩ đến chuyện thê tử nên đời sống cũng tương đối thảnh thơi. Ngoài những khi phải hái rau kiếm củi độ nhật, chàng thường được tự do mai Tần, tối Sở; cũng biết hát khúc Nghê, thả cần câu sông Vị (Khương Tử Nha câu cá ở sông Vị để đợi thời), thỉnh thoảng cũng biết ôm trăng mà ca bài “Tương tiếu tửu” với họ Lý, ngâm vịnh với chàng Tô, thả neo Tây Hồ với họ Phạm... Nói vậy chứ trừ những khi có sự trợ cấp tiền bạc của họ Lý kia, đa phần họ Trương phải tự lực hoăc dựa lưng nằm dài nơi “Cô hồn am” để nhờ miếng cơm manh áo của ông thủ từ già họ Phùng tốt bụng.

Tuy thế, Trương sinh cũng biết dành dụm, nhất là trước ngày lều chõng. Cánh hạc kia tuy sông hồ quanh năm suốt tháng, vong cội quên nguồn, nhưng nó cũng biết lúc nào nên đậu lại! Mà nơi đậu lại chính là ở “Cô hồn am” - một cái am lạnh lẽo điêu tàn về phía tây Nam Bình thôn, một nơi nổi tiếng là “ma gào quỷ thét”, nổi tiếng là có những “oan hồn uổng tử” thường lãng vãng, ẩn ẩn, hiện hiện, kêu khóc nỉ non. Ai hỏi Trương tại sao lại không sợ, Trương đáp:

- Ma quỷ cũng là người nhưng họ sống ở thế giới khác đó thôi. Phùng ở được sao Trương mỗ lại không ở được? Phùng hương khói hoa quả sớm hôm là lo phần “xác” cho họ. Còn Trương mỗ đọc kinh, đọc sử, dẫn những bài học của cổ nhân, những lời dạy của thánh hiền là lo phần “hồn” cho họ. Ma quỷ chắc phải cám ơn không hết, có đâu lại làm cho Trương mỗ sợ hãi phải bỏ đi!

Nhiều người mỉm cười khi nghe Trương nói thế, tưởng là lý luận của anh đồ gàn, nhưng sự thật hầu như chứng minh điều đó. Những người đi làm gỗ, làm mây, làm củi từ phía tây thôn, khuya sớm có dịp băng qua nghĩa địa đến Cô hồn am, thì chỉ thấy đèn chong rạng và giọng ngâm thơ bình phú hoặc đọc kinh đọc sử sang sảng của họ Trương, chẳng thấy ma quỷ kêu gào ở đâu hết.

Từ đó, Cô hồn am không còn là nơi đáng sợ cho dân Nam Bình thôn nữa.

Niên hiệu Minh Mạng thứ năm, từ miệt Thanh Hóa trở vô cho đến Thừa Thiên, hạn hán, mất mùa, đói kém, cướp làng, cướp chợ, cướp đường nổi lên khắp nơi. Tri phủ họ Lý bị giặc chặt đầu phanh thây, nghe nói là vì cai trị hà khắc và bòn rút của dân. Phong Trần huyện lại bị thêm cái lụt vào cuối mùa thu nên tình cảnh màn trời chiếu đất, tang tóc thê lương kể sao cho xiết? Ở Nam Bình thôn, người ta tranh giành cướp giật nhau cả từng nắm cỏ xanh. Ông thủ từ già họ Phùng không chịu nổi cơ hàn đã run lẩy bẩy, sùi bọt mép từ giã cõi đời vào một đêm mưa gió. Trương sinh bây giờ chỉ còn cô quạnh một mình nơi Cô hồn am với cái xác xanh xao, chống gậy lom khom vào ra, lê tấm thân tàn đợi tử thần đến gõ cửa. Manh chiếu cũ còn lại, Trương sinh bó xác người thủ từ già không đủ kín, vẫn còn thừa hai cái chân trắng bệch thò ra bên ngoài. “Bát cơm phiếu mẫu”(Tích Hàn Tín nhớ ơn người cho bát cơm lúc hàn vi.), “tình nghĩa Lưu Dương”(Tích Lưu Bình, Dương Lễ.), Trương sinh cũng biết lắm, nhưng vốn nhấc chân lên đã run rẩy thì làm sao đào được một cái lỗ để vùi lấp đi bộ xương còm?

Đã một ngày và một đêm rồi mà Trương sinh còn nằm đó. Mấy củ chuối cuối cùng sau góc am cũng đã chia hết cho nhau từ tuần nay. Trương sinh nhớ là mình đã không có gì ăn từ lâu lắm. Khi đưa tay sờ lưng thì đụng bụng, khi đưa tay sờ bụng thì đụng lưng! Râu, tóc, lông tay, lông chân rã ra từng đám, từng nắm! Trời trở lạnh đến đóng băng, mưa gió lại lợi dụng cái cảnh thê lương này để gào thét ghê rợn. Trương sinh nằm mơ mơ màng màng mà không biết mình đang ở cõi nào, sống hay chết; nhịp đập của tim và hơi thở bấy giờ hầu như là của ai khác, Trương nghe mong manh và xa lạ quá đỗi.

- Ào...ào... ào... rắc... răn... rắc...

Cô hồn am như muốn bị cơn gió trốc đi, ngửa nghiêng như chiếc tiểu thuyền giữa cơn đại lãng. Mưa ào ào như trút, mấy tấm tranh ở nóc bị bắn thốc đi, nước tràn vào lai láng.

Khoảng canh hai, trời lạnh. Trương sinh tự dưng chống tay lồm cồm bò dậy, người ướt như chuột lột. Ngọn đèn dầu lạc nơi góc am, được đậy bằng vỏ chai vỡ không biết phép lực kỳ dị nào mà không chịu tắt, lập lòe ánh sáng xanh lè. Đôi chân của tử thi thò ra khỏi chiếc chiếu hình như dài hơn và xanh hơn, dường như có gợn lân tinh và nhúc nhích nữa! Trương sinh nổi da gà toàn thân và một luồng khí lạnh từ đâu chạy dọc suốt xương sống.

- Sống khôn thác thiêng, xin vong hồn tiên sinh chứng giám cho. Trương sinh lâm râm khấn thầm trong miệng - Trương mỗ vì đói quá nên chưa lo được nhang khói mộ phần cho tiên sinh đó thôi, chứ không phải Trương mỗ là kẻ bạc tình bạc nghĩa đâu. Đừng nhát sợ Trương mỗ nữa.

Đôi chân của Phùng lão hình như đã nằm yên lặng như cũ. Trương sinh yên trí lò dò dựa vào mép bàn lần tay bưng ngọn đèn dầu lạc khơi tim lên. Khi quay lại thì trước mặt mình có một người cụt đầu đứng đó tự bao giờ!

- Đừng sợ. Đừng sợ. Trương huynh đừng sợ. Mạng Trương huynh lớn lắm, “vía” này không làm gì được Trương huynh đâu. Đệ là Lý tri phủ đây! Âm dương dẫu cách nhưng tình chiếu văn, nghĩa kim bằng không vì vậy mà xa nhau.

Trương sinh gượng đứng dậy, mắt thì chăm chăm nhìn người cụt đầu, chân thì lần lần xê vào xó vách. Chẳng biết giọng nói phát xuất từ đâu nhưng vang vang lạnh lẽo như tự dưới mồ sâu.

- Hà, hà! Nhớ ngày nào ta bình văn luận phú, tri âm tuy không dám ví với Tử, Bá (Bá Nha, Tử Ky) nhưng biết nhau nào há thẹn với Di, Tề (Bá Di, Thúc Tề.)? Lần đệ đi trấn nhậm Nghệ An, Trương huynh trở về Nam Bình thôn, đệ cũng đã cả gan xuống ngựa, uống một chén rượu mà ngâm bài “Tống biệt” của họ Vương:

“Hạ mã ẩm quân tửu

Vấn quân hà sở chi

Quân ngôn bất đắc ý

Quy ngọa Nam sơn thùy

Đản khứ, mạc phục vấn

Bạch vân vô tận thì...”

Trương huynh ơi, Trương huynh! Tuy Trương huynh không “bất đắc ý” nhưng cũng “quy ngọa Nam Bình thùy” và “tình ta như mây trắng, còn mãi đến muôn đời”. Trương huynh ơi! Trương huynh còn nhớ không chứ?

Nghe nhắc đến chuyện cũ, Trương sinh mới biết chắc đây là Lý tri phủ, người bạn cố tri đã giúp đỡ chàng qua rất nhiều cơn túng bấn, và cũng nhờ y mà Trương có được những ngày tháng phong lưu để chèo thuyền thăm Tây Tử, lên núi viếng Vu Nghi. Cảm động quá, Trương chạy đến, nhưng bỗng sựng lại sững sờ vì kia là cái xác không đầu, một cái bụng to lớn phình ra phía trước, tay chân gầy ốm tong teo như bốn que tăm găm vào một củ khoai lang!

Lâu lắm, khi đã định thần, Trương lắp bắp hỏi:

- Lý... Lý tri phủ đó ư?

Chợt có tiếng cười vô cùng lạnh lẽo rồi đáp:

- Lý tri phủ hay Lý âm phủ cũng một Lý đó thôi! Lý âm Lý dương hình thù dẫu khác nhưng cũng cùng chung một mệnh phận đoạn trường bi ai thống khổ như nhau. Trương huynh ơi! Đệ đau khổ lắm, Trương huynh ơi!

Tiếng nói chợt như bị cái gì chặn lại, rồi như nức nở. Và cái xác không đầu trước mặt Trương sinh chợt run lên bần bật; cái bụng thóp vô thóp ra liên hồi, hai tay không ngớt thọc vào bụng, vào lưng, vào ngực...

- Lý... Lý đệ làm gì thế? Lý tri phủ sao lại tự hành hạ mình như thế?

Ma không đầu sau một hồi lăn xuống đất ôm bụng rên la, đã đứng lên, kéo ghế chững chạc ngồi. Trương sinh cũng đã hết sợ, mạnh dạn ngồi vào ghế bên kia.

-“Vay trả, trả vay, nhân quả báo ứng”, ấy là luật trời chứ ai nào hại được ai? “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” (Lưới trời lồng lộng, thưa mà chẳng lọt). Quả vậy, không thể nào lọt được! Quay đầu là thấy bến. Thế mà... thế mà..

Trương sinh lắp bắp:

- Lý tri phủ không có... không có... cái đầu thì làm sao... quay? Quay làm sao?

Tiếng cười lại âm u lạnh lẽo:

- Trương huynh giờ mà còn khôi hài với đệ đấy ư? Rồi Trương huynh cũng thế, cả cái trần gian này nữa, coi chừng đều bị làm ma không đầu hết cả đấy; rồi chẳng còn cái đầu nào mà quay về nữa đâu!

Trương sinh cho đến bây giờ cũng còn chưa để ý đến nội dung ý tứ câu chuyện, mà cứ tò mò quan sát không biết cái mũi ở đâu, cái miệng ở đâu? Khi ma nói, Trương thấy cái bụng có nhúc nhích, khi mà cười thì cái bụng có giật giật. Quả là quái dị! Biết bao câu hỏi cử lẩn quẩn trong đầu Trương.

Bây giờ thì Trương đã hết đói, hết lạnh và hết sợ.

- Cái mũi, cái miệng của Lý tri phủ ở đâu?

- Ở trong này - Ma vỗ bụng đáp - cả cái đầu nữa, cũng ở trong này tuốt. Nhân gieo thì quả trổ. Quả thành thì nhân hoại. Đấy là thường lý mà Trương huynh không biết ư?

Trương sinh ngẩn ngơ đáp:

- Chứ không phải Lý tri phủ bị...?

- Bọn cướp chặt đầu? Phải mà không! Không mà phải! Ma lắc đầu - chặt đầu là một chuyện, mất đầu hay không đầu lại là chuyện khác. Chặt đầu thì có hạn, nhưng ma không đầu thì... hà... hà có hằng muôn ức triệu trên thế gian. Trương huynh coi đây...

Chợt nhiên ma đứng dậy cất tiếng hú rợn người, tiếng hú quả là quỷ khốc thần sầu. Chưa đầy nháy mắt, bên ngoài như có hằng thiên binh vạn mã chạy rầm rập, tiếng tru tréo đến dựng tóc gáy. Rồi thì ma không đầu đứng dày đặc cả một nghĩa địa, lố nhố đến tận chân trời.

Trương sinh mắt mở trừng, cơ thể như một tảng đá lạnh. Ma không đầu lại mất tăm sau một cái nháy mắt.

- Đệ là chủ súy của bọn chúng. Vì tuy cũng là ma không đầu nhưng đệ còn có một chút lương tri, biết phân biệt điều phải và điều không phải. Còn bọn kia thì hoàn toàn mất hẳn lương tri, suốt đời, chúng chỉ sống bằng bụng thôi!

Trương sinh có vẻ chưa hiểu nên ma giải thích tiếp:

- Làm vua cũng lo cho cái bụng, làm quan cũng lo cho cái bụng, làm lính cũng lo cho cái bụng, làm dân cũng lo cho cái bụng; đọc kinh, đọc truyện, đọc sử, thập niên đăng hỏa cũng lo cho cái bụng; bóp óc nặn trán, lên non xuống núi rồi cũng lo cho cái bụng... Cái bụng! Cái bụng! Cái bụng trở thành mục đích cho kẻ tang bồng hồ thỉ; mục đích cho bọn hồng quần khăn lược; mục đích cho sa-môn, đạo sĩ; mục đích cho ý chí, ước mơ và tham vọng... Thế đó, Trương huynh ơi! Thế thì làm sao cái đầu nó không tiêu hoại cho được khi mọi cứu cánh của con người đều đổ xô về cái bụng? Cái đầu nghiên cứu, học hành, nghĩ suy, mưu kế, mưu lược... là “nhân”, cái bụng thành là “quả”. Quả thành thì nhân hoại. Mầm thành cây thì hạt không còn. Cho nên, làm ma không đầu là một kết quả tất nhiên vậy.

Bất giác, Trương đưa tay sờ lên đầu mình. May mắn sao, đầu của Trương sinh vẫn còn! Chàng sợ mình mất đầu là phải, vì mấy chục năm nay, dẫu chàng có bảo mình quân tử, phong lưu, học hạnh thánh hiền chăng nữa, thì chàng cũng chưa nhìn xa hơn cái bụng, nếu như không muốn nói, hầu như mọi nỗ lực của chàng đều đổ xô về đó: cái bụng!

Trương đưa tay xoa bụng thì chàng cảm thấy an tâm. Sờ bụng thì chàng đụng lưng! Ở nơi cái bụng của chàng chưa có cái gì cả nên cái đầu chưa thể tiêu hoại được. Trương nghe mình thở phào khoan khoái.

Bỗng nhiên trời lại nổi gió. Gió rít lên từng hồi ghê rợn ngoài rừng thông, rừng liễu, ào ào chạy qua nghĩa địa, va đập vào liếp cửa những tiếng động kinh hồn. Ma không đầu chợt ôm bụng lăn xuống đất, quằn quại rên la, giọng nói của y lại dồn dập, áo não:

- Mau đi! Hãy bỏ tất cả đi. Cả thế gian này. Đừng dùng cái đầu mà lo cho cái bụng nữa. Trương huynh ơi! Hãy bỏ đi, bỏ gấp đi! Khổ lắm, khổ không chịu nổi đâu!

Trương nắm chặt mép bàn cố giữ cho người khỏi ngã, trong lúc Lý có vẻ thống khổ lắm, y lồ cồm bò dậy rồi chuệnh choạng chạy ra ngoài khung cửa.

- Vĩnh biệt Trương huynh! Chớ quên. Chớ quên. Chỉ có ai giữ cho “cái đầu bằng cái bụng, cái bụng bằng cái đầu” thì Diêm Vương mới phê cho ba chữ “khả vi nhân” (Có thể làm người.). Bụng bằng đầu, đầu bằng bụng là “khả vi nhân”. Nhớ lấy. Nhớ lấy. Khổ lắm. Khổ không chịu nổi đâu...!

Tiếng nói càng lúc càng não nùng thê lương, càng lúc càng chân tình, chí thiết. Và khi ấy, hình bóng ma không đầu cũng xa dần... mờ dần trong bóng đêm của nghĩa địa.

Bên ngoài mưa gió vẫn cứ rít gào như cả hàng trăm ngàn ma không đầu vẫn cứ rít gào muôn đời giữa cõi hư vô lồng lộng.

Từ đấy, nơi Cô hồn am, Nam Bình thôn, người ta không còn thấy bóng dáng chàng thư sinh họ Trương nữa. Chàng đi đâu không hề ai hay biết.

Mùa xuân niên hiệu Minh Mạng thứ sáu, một nhà sư du phương đi qua Cô hồn am chợt phát giác một tử thi đã mục rữa và tập ký tự Trương Tam, ghi lại chuyện trên và phía dưới đề bốn chữ: “Lưu hậu ích thế”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7510)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8419)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7187)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6095)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 7008)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5302)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3981)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8551)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 22989)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4656)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]