Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Kẻ Được Chân Truyền

01/11/201204:11(Xem: 8376)
05. Kẻ Được Chân Truyền
NGƯỜI TRỒNG HOA VÀ CHÀNG TU SĨ
Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Kẻ Được Chân Truyền




Chuyện được kể lại do một thiền sư Nhật Bản vào thế kỷ thứ XI. Ngài xuất thân từ giới võ sĩ đạo, sau này vì thâm ngộ Phật học mà thấy được chân lý vẹn toàn và cao cả của nhân sinh.

Từ bỏ chức vị coi mấy vạn quân cấm vệ của triều đình, ngài khoác áo du tăng hành cước, rồi sau đó ẩn dật nơi động thẳm hang sâu. Vết chân ngài, sau này, không những còn lưu lại nơi các võ đường trứ danh của con cháu “Thái dương thần nữ” mà còn lưu đậm trong các truyện ký, ngữ lục hoặc những giai thoại của Thiền tông.

Vì không được chân truyền của thầy, Vệ Hải lủi thủi trở về quê nhà lập nghiệp. Không bao lâu, dưới chân núi Vô Vi mọc lên một võ đường, bao giờ cũng có khoảng mười ngàn môn sinh khắp bốn phương đến thụ giáo.

Tuy đã là một võ sư khét tiếng, Vệ Hải sống một đời thanh bần và giản dị. Chàng dành hầu hết số tiền có được để tặng cho các bệnh xá và các quỹ xã hội. Ngoài ra, nơi chỗ ngụ cư của chàng bao giờ cũng có khoảng từ hai mươi đến ba mươi vị du tăng hành cước dừng chân với đủ y thực, sàng tọa và thuốc men.

Người ta kính trọng chàng cả tài năng lẫn đức độ. Hôm kia, đức vua nghe tiếng thỉnh Vệ Hải vào triều: “Ta phong cho khanh chức võ tướng đầu triều, coi tám muôn quân cấm vệ, đệ nhị phẩm và lộc thiên thạch để hưởng phú quý”.

Vệ Hải phủ phục dưới bệ rồng:

- Hạ thần căn trí ngu độn, chỉ có cái hư danh, chẳng có thực tài. Xin bệ hạ tha cho tội chết.

Nhà vua ngạc nhiên hỏi:

- Có lẽ nào? Khoa tiến sĩ võ cử năm kia, đứng đầu hai vạn môn sinh, võ tướng vô địch trấn thủ bắc thành Phú Hách với tài thần tiễn “bách bộ xuyên dương”, vốn xuất thân từ chân núi Vô Vi?

Vệ Hải kính cẩn tâu:

- Quả thật vậy! Thiếu niên Phú Hách có theo học nơi hạ thần hai năm về cung tiễn.

Nhà vua lại nói:

- Khoa tiến sĩ võ cử năm vừa rồi, bây giờ là tiên phong hổ tướng Lý-đát-noa, với hai thanh liễu diệp đao có thể lấy đầu tướng giặc cách xa hai trượng, nghe đâu cũng từ dưới trướng của khanh?

- Muôn tâu! Thanh niên Lý-đát-noa huyết khí phương cương, không có chí dài lâu, chỉ mới học một năm về đao thương đã vội về kinh lập công danh.

Vua vuốt râu cười hỉ hả:

- Hay lắm! Vậy nếu khanh từ chối lộc hàm, khanh phải đào tạo cho hai hoàng tử con ta có cái bản lãnh được vài phần của khanh cũng được.

Chẳng biết sao hơn, Vệ Hải xin phép được dẫn hai hoàng tử về chân núi Vô Vi.

Năm năm sau, chàng dẫn hai hoàng tử về phục mạng, tâu là đã học hết cái tài làm tướng ở đời.

Vua nhìn thân thể gầy gò của hai hoàng nam thì nghi ngờ khôn xiết. Với vóc dáng ấy thì rõ là tay văn nhược, làm sao mà “cử đỉnh bạt sơn?”

Hiểu ý rồng, Vệ Hải tâu:

- Nhờ phúc ấm của bệ hạ, hai hoàng tử cốt khí hơn người, giữa một vạn môn sinh họ đã trổ tài vô địch. Chân núi Vô Vi không có người thứ ba.

Cuộc thử tài sau đó được diễn ra ở đại võ trường.

Hoàng tử thứ nhất dùng thanh kiếm báu của vua ban, ngồi bất động. Hoàng tử dùng tâm chỉ huy kiếm. Thanh kiếm đảo lộn giữa hư không lấp lánh hào quang, chém cụt cả hàng trăm võ báu.

Lần thứ hai, hoàng tử sử dụng thanh kiếm gỗ tầm thường, dùng ý lực tạo sức mạnh ngàn cân, đánh rơi tất cả đồng chùy và thiết côn vĩ đại.

Lần thứ ba, hoàng tử cầm một nhánh liễu, tập trung ý lực. Nhành liễu như con rồng thần lả lướt vờn mây, len lỏi giữa rừng vũ khí, điểm tê mọi huyệt đạo. Vũ khí rơi như lá rụng.

Nhà vua và quần thần kinh sợ quên cả vỗ tay, miệng há hốc không nói nên lời.

Văng vẳng có giọng Vệ Hải tâu:

- Xin bệ hạ tha tội! Hạ thần đã đem hết tâm truyền nhưng hoàng tử chỉ học có bấy nhiêu; “dùng tâm sử dụng kiếm”. Là giai đoạn thứ nhất của một hành giả võ đạo.

Biết tài thần sầu quỷ khốc của hoàng tử thứ nhất nên hoàng tử thứ hai bước ra với hai bàn tay không, mọi người đều nín hơi chờ đợi...

Hoàng tử ngồi xuống theo thế kiết già phu tọa.

Cuộc đấu khởi đầu...

Hai mươi võ tướng hét “ki-a” một tiếng, hai mươi thanh đại đao như hai mươi con thanh long đầy móng vuốt đồng lao tới một lượt. Nhưng kìa! Hai mươi thanh đại đao đều rơi nằm yên lặng trên đất.

Năm mươi tay thần tiễn đồng buông một lúc năm mươi mũi tên vàng. Nhưng kìa! Năm mươi mũi tên lại đổi hướng bay lên hư không!

Hoàng tử này không còn “dùng tâm chỉ huy kiếm” mà “tâm đã là kiếm”, sử dụng vũ khí của đối thủ theo ý muốn của mình.

Giọng Vệ Hải thoảng giữa võ trường, mồn một bên tai đức vua:

- Xin bệ hạ tha tội! Hoàng tử quả có căn cốt ưu tú, trí tuệ hơn người, đã học được chặng đường thứ hai của một hành giả võ đạo: kiếm là tâm, tâm là kiếm.

Sau cuộc tiệc đãi đằng trọng hậu vị võ sư siêu việt, hoàng tử thứ hai xin phép đức vua theo thầy để thụ giáo cho đến nơi đến chốn.

Vệ Hải tâu:

- Tâu đại vương! Tâu hoàng tử! Khả năng một đời của hạ thần vậy là đã trao truyền hết rồi.

Đức vua ngạc nhiên:

- Khanh dường như có nói đến giai đoạn thứ ba?

Vệ Hải thở dài:

- Quả có, tâu đại vương! Nhưng hạ thần phước mỏng nghiệp dày chẳng theo học được. Hạ thần đã bị vị ân sư cao cả đuổi về nơi chặng đường thứ ba này vì căn trí ngu độn.

Đức vua và quần thần kinh sợ.

Hoàng tử đứng chôn chân một chỗ, tự nghĩ:

- Thầy ta khiêm tốn và cao cả vô cùng. Thầy ta mà đã nói vậy thì ta chẳng thể học được nữa rồi.

Từ đó, nhà vua được hai hoàng nam, như hai cánh tay của vì thiên tướng, biến một nước hèn nhược thành một quốc độ phú cường, các nước lân bang đều khiếp phục. Tuy thế, trong lòng nhà vua luôn bị tò mò ám ảnh bởi hình ảnh cuối cùng của một hành giả võ đạo. Y là thế nào? Tài của y kinh khiếp đến độ nào?

Một năm sau, từ chân núi Vô Vi loan tin về: vị võ sư siêu việt đã giải tán đám môn đồ. Vệ Hải đã được thầy gọi lên núi.

Nhà vua, hai hoàng tử và cả triều đình hồi hộp đón chờ lần trở lại của vị võ sư ấy. Nhưng thời gian... thời gian đã quá lâu, đã không biết bao nhiêu mùa hoa anh đào, vị võ sư vẫn biệt vô âm tín.

Hôm kia, không ngờ được, họ lại nghe tin vị võ sư đã từ chân núi trở về.

Ai cũng ngỡ ngàng.

Vị võ sư siêu việt bây giờ đã là một sa-môn hành cước, y áo đầy bụi đường, khuôn mặt xương xẩu, khắc khổ, chứng tỏ đã trải qua cuộc sống gian lao.

- Tâu bệ hạ! Đây là chặng đường thứ ba của một hành giả võ đạo: con đường tự thắng mình!

Nói xong, vị sa-môn mỉm cười kín đáo rồi lặng lẽ cúi đầu đi về phía trước.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4819)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43946)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4513)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4426)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4359)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6469)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4762)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4179)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 25642)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24468)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]