Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thanh Sắc Thi Ca

14/06/201212:06(Xem: 14882)
Thanh Sắc Thi Ca

TUỆ SỸ ĐẠO SƯ

Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 2


Tác giả: Nguyên Siêu
Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang
In lần thứ nhất
California - Hoa Kỳ 2006

flowerba

THANH SẮC THI CA

Tuệ Sỹ

Cám ơn ông hàng xóm

Ngừng mở máy thu thanh

Võng đưa thềm mận chín

Nghe sẻ gọi bình minh.

(Mộng Ngân Sơn)

Niềmvui đơn sơ của nhà thơ ở vào con số 12 đường Bến Chợ là như vậy đó. Tiếng sẻ gọi nhau trong nắng mai thật quá hiếmgiữa những âm thanh rộn ràng khác. Trướcmặt nhà của nhà thơ Quách Tấn chúng ta, đây là ngôi chợ Đầm của thành phố NhaTrang với lối kiến trúc tân tiến. Nhưngtrước kia, chỗ này là một đầm sen. Mộtcái đầm sen ở ngay giữa thành phố; chúng ta có thể hiểu được tâm sự lạc loài củamột nhà thơ nặng tình ấp ủ thiên nhiên như Quách Tấn. Mặc dù vẫn mang những tính chất náo nhiệt củamột phố thị kiểu mẫu của thế kỷ này. NhaTrang thỉnh thoảng vẫn trầm mình trong hương sắc diễm lệ của mùa thu. Cho nên nhà thơ của chúng ta vẫn là bóng dángmột lữ khách mùa thu của một thời đại quá khứ còn sót lại giữa những bước chânnhộn nhịp của chúng ta, của thanh niên trưởng thành trong thế kỷ hai mươi:

Áo giũ ngàn sương gió

Lên chùa thăm cố nhân

Non nghiêng thềm bóng xế

Lịu địu bóng nhàn vân.

Lịu Địu (Mộng Ngân Sơn)

Phongcách ấy quả thực có khác với chúng ta trong những thù tạc vãng lai. Chúng ta đến và đi trong âm thanh và tốc độ củacơ khí, ồn ào và vội vã. Do bản chất cơkhí, nghĩa là sự hiện hữu bằng những phản lực bị dồn ép và bị bùng vỡ, mà thời đạichúng ta mang nặng tính chất chiến đấu, bạo động: những nổi loạn trong triếtlý, trong văn học; những phong trào quần chúng, những nổi loạn của sinh viên thếgiới... Thế thì, thời đại ấy của nhà thơấy là thời đại ẩn mình trầm lặng, của một đám mây lơ lửng lồng trong bóng núinghiêng nghiêng. Là thời đại của một VươngDuy tiễn bạn trong chén rượu Vị Thành, của một Gia Đảo lên núi tìm bạn, hay mộtLữ Đường nơi chùa Phổ Lại, một Nguyễn Du trong dãy Hồng Linh?

Đạodịch nói: “Thiên nhiên biến động trong bất động. Nếu lửa là biểu tượng cho sự tiến hóa khôngngừng, thì núi là biểu tượng cho sự an định, tĩnh chỉ.” Cuộc lữ không chỉduy một mặt là cuộc hành trình vô tận. Nhưng đó là những bước đi trên con đường Đạo – Chân thường vĩnh cửu. Núi có thể được san bằng để cho phố thị mọclên, biển có thể bị lấp cạn để trở thành xa lộ. Dù đến mức như vậy, mối tương quan bản thể giữa con người và thiên nhiênvẫn tràn đầy trong đồng nhất tính hồn nhiên. Miếng vỏ sò lạc loài trên núi vẫn mang trong bản chất tồn tại của nó mộtnỗi hoài hương tha thiết, nó mơ về những đợt sóng của trùng dương:

Vỏ sò khô ấp ủ

Niềm băng tuyết đêm sương

Muôn xa bờ bến cũ

Vang vọng sóng trùng dương.

Ấp Ủ (Mộng Ngân Sơn)

Nhàthơ của chúng ta trong một thoáng rung động kỳ diệu nào đó đã đọc ra bản chất tồntại sâu xa của tạo vật. Cũng chỉ với tâmhồn ấy mới có thể đọc ra những ẩn ngữ ấy trong lớp vỏ vô tri và vô nghĩa ấy.

Tấtnhiên nhà thơ vẫn ở trong dòng thác cuộn ào ạt theo bước tiến lịch sử của conngười, nhưng trong cuộc hành trình vô tận ấy nhà thơ có thể đạt được tận cùng vềbản chất lữ thứ của mình, vì trong tận cùng tâm sự vẫn là một nỗi hoài hươngbao la. Quê hương hiện thực của ông ở đâu?Ở trong đất Việt trời Nam này, trong bóng chùa ẩn giữa mây trắng; trong tiếngchuông khuya sớm, những tiếng sáo chiều. Đấy là những hình ảnh, những “thanh” và “sắc”, mà thiên nhiên vô hình thựchiện trong cụ thể hữu hình:

Chùa ẩn non mây trắng

Bóng in hàng liễu xanh

Mai chiều chuông đã tạnh

Vòng sóng còn long lanh.

Tiếng Ngân (Giọt Trăng)

Đấy và những gì tương tự như thế đấy, là hình ảnhthiên nhiên đầy tình tự, là khoảng trời xanh tinh khiết còn lại trong đôi mắtlong lanh của một nhà thơ trong cảnh xế chiều của chính đời mình, và của cả mộtthời đại thi ca Việt Nam. Tiếng chuôngchùa Hải Đức trên đồi Trại Thủy kia, sát bên thành phố ấy, sớm và chiều vẫn lạcloài, lan xa trong cô độc, trong sự sống của thành phố đang trôi đi dưới nhữngtiếng nổ ròn rã và tốc độ vội vàng của đủ các loại động cơ. Những tiếng chuông lạc loài, một hồn thơ côquạnh, và còn gì nữa? Những giọt lệ – những giọt lệ đoàn viên trong nỗi hoài thươngtha thiết:

Từng giọt châu rơi mắt mẹ hiền

Mừng con lưu lạc trở đoànviên

Neo thu bến tạnh thuyền sươngsóng

In bóng chùa xưa trăng nửahiên.

Chuông Khuya (Đọng bóng chiều)

Vậy thiên nhiên có nói gì chăng? Thì đấy: bốnmùa đến rồi đi, và rồi lại đến. Nhưngngôn ngữ của loài người là gì, trên một cung bậc nào đó?

(Trích từ tập “Quách Tấn - Qua cái nhìn văn họccủa nhiều tác giả - Nhà xuất bản trẻ - 1994”)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2011(Xem: 4336)
Tôi có ý nghĩ viết thành tập sách này vào đầu năm nay 97, nhân kỷ niệm mười năm tôi được xuất gia học đạo. Mười năm thường là cái mốc thời gian đáng nhớ cho những sự cố gì xảy ra trong một đời người. Sự cố ấy mang ý nghĩa của đổi thay dù sự đổi thay đó mang tính cách thế tục hay xuất thế. Trong đạo thầy đã dạy tôi rằng: "Sau một thời gian tu tập con cần nên cứu xét lấy mình, ngắn thì mỗi năm, dài thì năm năm, mười năm. Sau khoảng một thời gian dài ấy mà con thấy có niềm tin hơn, ý chí hơn trong sự tu tập thì đó là con đã tiến bộ. Giảm niềm tin, thiếu tinh tấn chính là con đã lui sụt. Tu tập mà không tiến bộ tức là thua sút, yếu hèn, phụ bạc công ơn thầy tổ nuôi nấng và sự thọ nhận cúng dường của đàn na thí chủ".
04/11/2011(Xem: 4078)
Tiếng súng nổ từ xa, dù lớn dù nhỏ, vẫn là chuyện thông thường không thắc mắc đối với dân Quảng Ngãi trong thời chiến tranh. Nhưng đêm nay, đêm mồng một Tết, tiếng súng nổ bên tai làm cả nhà tôi bàng hoàng. Không ai bảo ai đều giật mình thức giấc rồi chạy ào xuống nhà núp dưới chân cầu thang. Tiếng súng nổ gần quá, tôi nghe cả tiếng hô hoán: “Tiến lên!” giọng Bắc rặc của một người chỉ huy nào đó. Trời! Không lẽ mặt trận đang diễn ra trong thành phố? Tim tôi đập loạn xạ, dù mồ hôi vã ra, răng tôi vẫn đánh bò cạp. Tôi rúc vào lòng năm chị em gái và ba má của tôi. Tiếng khóc thút thít vì sợ hãi muốn oà ra nhưng tôi cố dằn lòng sợ địch quân nghe thấy. Ầm! Một trái pháo kích rớt trúng nhà phía sau của tôi. Ngói bể rơi loảng xoảng, khói đạn bay mịt mù. Tôi chỉ kịp thét lên, ôm cứng lấy má tôi, hồn như bay khỏi xác. Đó là năm Mậu Thân 1968, lúc tôi 14 tuổi.
27/10/2011(Xem: 18334)
Bùi Giáng, Người viết sách với tốc độ kinh hồn
12/10/2011(Xem: 18970)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
01/10/2011(Xem: 7263)
Hàng ngũ phật tử thường được chia là phật tử tại gia và phật tử xuất gia. Các phật tử tại gia thường được gọi là cư sĩ. Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cư sĩ nổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém gì các vị đã xuất gia. Có nhiều vị cư sĩ nổi tiếng nhưng bài này chỉ xin nhắc đến ông Duy Ma Cật, bà hoàng hậu Thắng Man, cư sĩ Huệ Năng lúc chưa xuất gia và sau đó đến gia đình ông Bàng Uẩn.
25/09/2011(Xem: 3804)
Lời hát ru nhẹ nhàng mà trầm buồn da diết ấy đi vào trong cả giấc mơ của Hiền. Bao lần chị giựt mình thảng thốt ngồi bật dậy… ngơ ngác nhìn quanh. Chẳng có gì khác ngoài bóng đêm lạnh giá bao trùm hai dãy xà lim hun hút. Chốc chốc vẳng lại tiếng thạch sùng chặc lưỡi, tiếng chí chóe của mấy chú tí ưa khuấy rối trong xó tối. Và cả tiếng thở dài của ai đó dội qua mấy bức tường xanh rêu im ỉm…
24/09/2011(Xem: 2817)
Ngày xưa có một chàng trai tên là Na Á. Anh mồ côi cha từ sớm, ở với mẹ già. Nhà Na Á nghèo, anh phải làm nghề đánh cá để nuôi thân, nuôi mẹ.
24/09/2011(Xem: 2843)
Một hôm em bé ngồi trong bóng cây trú nắng, gió cũng thổi mát quá, em ngủ quên, đến lúc thức dậy, thì đàn trâu đã đi mất. Em tìm khắp cánh đồng mà chẳng thấy.
21/09/2011(Xem: 2831)
Tờ Chú (có nghĩa là anh đen) nghèo nhất làng. Họ nghèo lắm, nghèo đến nỗi không có một con dao mẻ để phát nương, một cái thuổng để đào củ mài.
21/09/2011(Xem: 2692)
Ngày xưa, ở xã Đại An gần cù lao Huân tỉnh Khánh Hòa có một đôi vợ chồng già không có con cái. Ông bà ở trong một căn nhà lá dựng bên vách núi, làm nghề trồng dưa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]