Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

[31 - 40]

13/02/201217:42(Xem: 8543)
[31 - 40]

DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN

(333 Câu Chuyện Thiền)

Đỗ Đình Đồng góp nhặt

 

31. HÀ TIỆN LỜI DẠY

Một y sĩ trẻ ở Tokyo tên là Kusuda gặp một bạn đồng nghiệp đang học Thiền. Y sĩ trẻ hỏi bạn Thiền là gì?

Người bạn đáp, “Tôi không thể nói bạn biết Thiền là gì, nhưng có một điều chắc chắn là nếu hiểu Thiền, bạn sẽ không sợ chết.”

Kusuda nói, “Hay lắm, tôi sẽ thử. Tôi có thể tìm thầy ở đâu?”

Người bạn bảo, “Hãy đến sư Nam Ẩn.”

Vì vậy Kusuda đến viếng Thiền sư Nam Ẩn. Anh ta mang theo một con dao găm dài hai tấc rưỡi để xem chính Thiền sư có sợ chết hay không.

Khi Nam Ẩn vừa thấy Kusuda liền kêu lên: “Này, anh bạn, anh có khỏe không? Đã lâu chúng ta không gặp nhau!”

Điều này làm Kusuda bối rối. Anh ta đáp: “Chúng ta chưa bao giờ gặp nhau mà.”

“Đúng, đúng,” Nam Ẩn trả lời. “Tôi nhầm anh với một y sĩ khác đang theo học ở đây.”

Sự việc bắt đầu như vậy, Kusuda mất cơ hội thử thầy, nên anh ta miễn cưỡng hỏi xin học Thiền.

Nam Ẩn nói, “Thiền không có gì khó. Nếu là một y sĩ, hãy chữa trị tử tế cho bệnh nhân. Đó là Thiền.”

Kusuda viếng sư Nam Ẩn ba lần. Mỗi lần Nam Ẩn đều nói một câu y nhau. “Một y sĩ không nên lãng phí thì giờ quanh quẩn ở đây. Hãy về săn sóc bệnh nhân đi.”

Đối với Kusuda thật chẳng có gì rõ ràng, làm sao một lời dạy như thế có thể làm cho người ta hết sợ chết. Vì vậy vào lần viếng thứ tư, anh ta phàn nàn: “Bạn con bảo con rằng một khi hiểu Thiền sẽ không còn sợ chết. Mỗi khi con đến đây thầy đều bảo hãy về chăm sóc bệnh nhân. Con biết rõ điều ấy lắm. Nếu đó là cái mà thầy gọi là Thiền, con sẽ không viếng thầy nữa.”

Nam Ẩn mỉm cười, vỗ nhẹ y sĩ, “Tôi có hơi nghiêm khắc với anh. Để tôi cho anh một công án.” Sư giới thiệu Kusuda tham công án “Vô” của Triệu Châu. Đây là công án đầu tiên để giác ngộ tâm trong cuốn sách gọi là Vô Môn Quan.

Kusuda tham công án Vô hai năm. Cuối cùng anh ta nghĩ mình đã đạt yếu tánh của tâm. Nhưng thầy anh phê bình: “Anh chưa vào được.”

Kusuda tập trung tâm lực thêm một năm rưỡi nữa, tâm anh ta trở nên tĩnh lặng. Các vấn đề đã được hóa giải. Vô trở thành chân lý. Anh ta phục vụ bệnh nhân tốt và cũng không biết mình phục vụ tốt nữa. Anh ta không còn quan tâm đến sống và chết nữa.

Rồi khi anh ta trở lại viếng sư Nam Ẩn, ông thầy già của anh chỉ mỉm cười.

(Thiền Cốt Thiền Nhục)

32. NGỤ NGÔN

Phật kể một ngụ ngôn trong kinh:

Một người đàn ông băng qua một cánh đồng, gặp một con cọp. Anh ta chạy trốn, con cọp rượt theo. Đến một cái hố sâu anh ta chụp lấy sợi dây nho dại và đu mình xuống miệng hố. Bên trên, con cọp dọa anh ta. Run rẩy, anh ta nhìn xuống, dưới xa, một con cọp khác đang chờ ăn thịt anh. Giúp anh chỉ có dây nho.

Hai con chuột, một trắng một đen, bắt đầu gặm đứt dây nho từng chút. Người đàn ông chợt thấy một trái dâu thơm ngon gần đó. Một tay bám dây nho, tay kia thò qua hái trái dâu. Ôi trái dâu ngọt làm sao!

(Thiền Cốt Thiền Nhục)

33. LÂU ĐÀI CÁT

Một nhóm trẻ em đang chơi trên bờ sông. Chúng dùng cát xây lâu đài. Mỗi em muốn bảo vệ lâu đài của mình nói: “Cái này của tao!” Chúng giữ riêng lâu đài của mình và không cho phép lẫn lộn. Khi tất cả lâu đài đã hoàn thành, một em đá nát lâu đài của một em khác. Chủ nhân của lâu đài bị đá nát nổi cơn cuồng nộ, lao đến lôi tóc em kia, vừa đấm vừa lớn tiếng kêu,” Nó đá nát lâu đài của tao, tất cả hãy đến đây giúp tao trừng phạt nó cho đáng tội nó.” Tất cả những em kia liền đến tiếp tay. Chúng quất em nhừ tử, còn đạp lên người em khi em đã nằm dài dưới đất. . .

Rồi chúng trở lại chơi tiếp lâu đài của mình. Mỗi em nói: “Đây là lâu đài của tao, không đứa được nào được phép chiếm lấy. Hãy tránh xa ra! Chớ đụng đến lâu đài của tao!” Nhưng khi chiều đến, trời bắt đầu tối, tất cả đều nghĩ mình nên về nhà. Không em nào nghĩ đến lâu đài mình sẽ ra sao. Một em đạp lên lâu đài của mình, em khác dùng hai tay đập nó. Rồi chúng quay lưng bỏ đi, ai về nhà nấy.

(Du Già Sư Địa Luận)

34. ĐỆ NHẤT ĐẾ

Khi đến chùa Hoàng Bá (Obaku) ở Kyoto người ta sẽ thấy trên cổng chùa khắc mấy chữ, “ĐỆ NHẤT ĐẾ.” Nét chữ to lớn phi thường và những ai biết thưởng thức nghệ thuật viết chữ đẹp đều ngưỡng mộ cho là kiệt tác. Những chữ đó do Thiền sư Cao Tuyền (Kosen) viết đã hai trăm năm qua.

Cao Tuyền đã viết những chữ đó trên giấy và những người thợ theo đó mà chạm lên gỗ. Khi sư phát họa những chữ đó, một chú tiểu can đảm đã ở bên cạnh mài bao nhiêu nghiêng mực cho sư viết và không ngớt phê bình tác phẩm của thầy.

“Cái đó không đẹp,” chú nói với Cao Tuyền sau nỗ lực thứ nhất.

“Cái này thế nào?”

“Tệ. Xấu hơn cái trước,” chú đệ tử trả lời.

Cao Tuyền kiên nhẫn viết hết tờ này đến tờ khác cho đến tám mươi bốn tờ “ĐỆ NHẤT ĐẾ” chất lên nhau mãi cho đến khi chú đệ tử chấp nhận.

Rồi khi chú bé chạy ra ngoài một lát, Cao Tuyền nghĩ: “Đây là cơ hội ta tránh được con mắt sắc bén của nó,” sư viết nhanh với tâm không bị phân tán: “ĐỆ NHẤT ĐẾ.”

“Một kiệt tác,” chú đệ tử reo lên.

(Thiền Cốt Thiền Nhục)

35. LỜI KHUYÊN CỦA MẸ

Jiun là một bậc sư của Chơn Ngôn tông, là một học giả Phạn ngữ nổi tiếng thời Đức Xuyên (Tokugawa). Khi còn trẻ sư thường diễn thuyết cho các sư huynh sư đệ nghe.

Mẹ sư nghe tin này bèn viết cho sư một lá thư như sau:

“Con ạ, mẹ không nghĩ con là một đệ tử nhiệt thành của Phật bởi vì con muốn trở thành quyển từ điển biết đi cho kẻ khác. Thông tin và bình luận, vinh quang và danh dự không có chỗ chấm dứt. Mẹ muốn con bỏ chuyện diễn thuyết ấy đi. Hãy tự nhốt mình trong một cái am nhỏ trên ngọn núi hẻo lánh nào đó. Hãy hiến thời gian cho việc tọa thiền và đạt chân ngộ bằng cách này.”

(Thiền Cốt Thiền Nhục)

36. TIẾNG VỖ MỘT BÀN TAY

Trụ trì chùa Kiến Nhân (Kennin) là Thiền sư Mặc Lôi (Mokurai: Im Lặng Sấm Sét). Sư có một chú tiểu thị giả tên là Đông Dương (Toyo) chỉ mới mười hai tuổi.

Sáng chiều Đông Dương thấy các đệ tử lớn tuổi hơn đến phòng lão sư tham thiền, nhận sự chỉ dạy hay hướng dẫn cá nhân, thường là các công án để chận đứng tâm lang thang.

Tiểu Đông Dương cũng muốn tham thiền.

“Hãy đợi một thời gian,” Mặc Lôi bảo. “Con còn nhỏ quá.”

Nhưng chú bé cứ khăn khăn, cuối cùng ông thầy phải đồng ý.

Chiều đến, đúng giờ tiểu Đông Dương đến trước cửa phòng tham thiền của lão sư Mặc Lôi. Chú gõ chuông báo hiệu sự có mặc của mình, cúi đầu lễ bái ba lần ngoài cửa, bước vào ngồi trước lão sư trong sự im lặng trang nghiêm

“Con có thể nghe tiếng vỗ của hai bàn tay đập vào nhau,” Mặc Lôi nói, “Bây giờ hãy cho ta nghe tiếng vỗ của một bàn tay.”

Đông Dương lễ bái rồi trở về phòng mình tham cứu vấn đề. Từ cửa sổ phòng mình, chú nghe tiếng hát của các geisha (kỹ nữ). “A, ta có rồi!” chú reo lên.

Chiều hôm sau, khi thầy bảo chú chứng minh tiếng vỗ của một bàn tay, tiểu Đông Dương bắt đầu chơi nhạc của các geisha.

“Không, không,” Mặc Lôi nói. “Cái đó chẳng bao giờ đúng. Đó không phải là tiếng vỗ của một bàn tay. Con chưa được gì hết.”

Nghĩ rằng tiếng nhạc đó có thể xen vào, chú dời đến một nơi yên tĩnh. Chú lại thiền định. Tiếng vỗ của một bàn tay có thể là cái gì? Chú chợt nghe tiếng nước tí tách. “Ta được rồi,” Đông Dương tưởng vậy.

Lần kế khi xuất hiện trước thầy, Đông Dương bắt chước tiêng nước nhỏ giọt.

“Cái gì thế,” Mặc Lôi hỏi. “Đó là tiếng nước nhỏ giọt, chẳng phải là tiếng vỗ của một bàn tay. Hãy cố gắng nữa đi.”

Đông Dương hoài công thiền định để nghe tiếng vỗ của một bàn tay. Chú nghe tiếng gió thở dài, nhưng âm thanh này cũng bị từ chối.

Rồi chú nghe tiếng cú kêu. Âm thanh này cũng không được chấp nhận.

Tiếng vỗ của một bàn tay không phải là tiếng của lũ châu chấu.

Hơn mười lần tiểu Đông Dương viếng lão sư Mặc Như Lôi với những âm thanh khác nhau. Tất cả đều sai. Chú suy tư tiếng vỗ của một tay có thể là tiếng gì đã gần một năm.

Cuối cùng tiểu Đông Dương đã nhập định thật sự và vượt qua tất cả mọi âm thanh. “Tôi không còn góp nhặt nữa,” sau đó chú giải thích, “vì vậy tôi đã đạt đến âm thanh không âm thanh.”

Đông Dương đã nhận ra tiếng vỗ của một bàn tay.

(Thiền Cốt Thiền Nhục)

37. TIM TÔI BỪNG CHÁY NHƯ LỬA

Thích Tông Diễn Soen Shaku), Thiền sư Nhật đầu tiên đến châu Mỹ, nói: “Tim tôi bừng cháy như lửa nhưng mắt tôi nguội lạnh như tro tàn.” Sư đặt ra những qui luật sau đây và thực hành hằng ngày suốt đời sư.

- Buổi sáng trước khi mặc quần áo làm việc, hãy đốt nhang và thiền định.

- Hãy nghỉ ngơi vào những giờ nhất định. Hãy lấy thức ăn vào những quãng thời gian nhất định. Hãy ăn điều độ và không bao giờ ăn đến thỏa mãn.

- Hãy tiếp khách với cùng một thái độ như khi ở một mình. Khi ở một mình hãy giữ cùng một thái độ như lúc tiếp khách.

- Hãy coi chừng điều mình nói và bất cứ nói điều gì, hãy làm điều đó.

- Khi cơ hội đến chớ để nó đi qua, nhưng luôn luôn nghĩ hai lần trước khi hành động.

- Đừng tiếc nuối quá khứ. Hãy nhìn đến tương lai.

- Hãy có thái độ không sợ hãi của người anh hùng và trái tim yêu của đứa trẻ thơ.

- Khi đi ngủ, hãy ngủ như là đã đi vào giấc ngủ cuối cùng. Khi thức dậy, hãy bỏ chiếc giường lại phía sau lập tức như ném đi đôi giày cũ.

(Thiền Cốt Thiền Nhục)

38. ESHUN QUA ĐỜI

Khi Thiền ni Eshun quá sáu mươi tuổi, sắp từ giã cõi đời, bà bảo vài tăng nhân lấy củi làm giàn hỏa trước sân.

Tự mình ngồi vững giữa giàn hỏa, ni sư bảo chúng đốt lửa quanh giàn.

Một tăng nhân kêu lên, “Ôi, sư bà! — đó có nóng không?”

“Chỉ có ngu như ngươi mới quan tâm chuyện đó,” Eshun đáp.

Ngọn lửa dâng cao và ni sư qua đời.

(Thiền Cốt Thiền Nhục)

39. TỤNG KINH

Một nông dân yêu cầu một tu sĩ phái Thiên Thai tụng kinh cho người vợ đã chết của anh ta. Sau khi tụng kinh xong, anh ta hỏi: “Thầy nghĩ tụng kinh như thế này vợ tôi có được công đức không?”

“Không nghững chỉ vợ anh mà tất cả chúng sinh đều được phúc lợi khi tụng kinh như vầy,” tu sĩ trả lời.

Anh nông dân nói, “Nếu thầy nói tất cả chúng sinh đều được lợi ích, vợ tôi có thể rất yếu, những người kia sẽ chiếm lợi thế, hưởng hết lợi ích của vợ tôi. Như vậy xin làm ơn tụng kinh cho một mình bà ta thôi.”

Tu sĩ giải thích rằng ước vọng của Phật tử là cúng dường phúc lợi và công đức cho mọi chúng sinh.

“Đó là lời dạy rất hay,” anh nông dân kết luận, “nhưng xin cho một ngoại lệ. Tôi có một anh hàng xóm thô lỗ và ác với tôi. Xin loại anh ta ra khỏi mọi chúng sinh.”

(Thiền Cốt Thiền Nhục)

40. BA NGÀY NỮA

Túy Ông (Suiwo), môn đệ của Bạch Ẩn, là một Thiền sư giỏi. Trong một kỳ ẩn cư mùa hạ, một đệ tử từ phía nam hải đảo Nhật bản đến tham vấn sư.

Túy Ông cho anh ta tham công án “Tiếng vỗ một bàn tay.”

Người đệ tử ấy ở lại ba năm nhưng không vượt qua được trắc nghiệm. Một đêm anh ta đến khóc với Túy Ông và nói, “Con phải về nam với xấu hổ và bối rối bởi vì con chưa giải đáp được công án.”

Túy Ông khuyên, “Hãy chờ thêm một tuần và tọa thiền liên tục.”

Nhưng ngộ vẫn không đến với anh ta.

Túy Ông bảo, “Hãy thử thêm một tuần nữa.” Người đệ tử vâng lời, nhưng vô ích.

“Hãy thêm một tuần nữa.” Song cũng lại hoài công. Tuyệt vọng người đệ tử xin được giải tỏa, nhưng Túy Ông yêu cầu một cuộc thiền định năm ngày nữa. Cũng chẳng có kết quả. Rồi sư ra lệnh, “Hãy thiền định thêm ba ngày nữa, rồi nếu không đạt ngộ thì tốt hơn anh hãy tự tử đi.”

Vào ngày thứ nhì, người đệ tử giác ngộ.

(Thiền Cốt Thiền Nhục)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2018(Xem: 4433)
40 Năm Ở Mỹ, sách của TT Thích Từ Lực
11/01/2018(Xem: 5082)
Vào những năm đầu của thập niên 2000, khi cây bút đang còn sung sức, tôi viết rất nhiều bài về danh lam thắng cảnh trên quê hương Nha Trang của mình để giới thiệu trên các báo và tạp chí khắp đất nước. Trong số đó, hiển nhiên là có bài viết về ngôi chùa đã lưu nhiều hình ảnh, dấu ấn kỷ niệm vào ký ức tuổi thơ của tôi với tên gọi thân quen mộc mạc: “Chùa Núi Sinh Trung”.
08/01/2018(Xem: 11179)
Hồi còn tại thế xưa kia Trên đường giáo hóa Phật đi qua làng Ngài đi cùng ông A Nan Khai tâm gieo ánh đạo vàng giúp dân. Đang đi ngài bỗng dừng chân Bước quanh lối khác có phần xa thêm Ông A Nan rất ngạc nhiên Vội lên tiếng hỏi. Phật liền giảng ra: "Này A Nan phía trước ta Có quân giặc cướp thật là hiểm nguy Sau ta ba kẻ đang đi Gặp quân giặc đó khó bề thoát qua!"
08/01/2018(Xem: 9356)
Ở bên Ấn Độ thuở xưa Nơi thành Xá Vệ, buổi trưa một ngày Gia đình kia thật duyên may Phật thương hóa độ, dừng ngay tại nhà, Tiếc thay chồng vợ tỏ ra Tham lam, độc ác, xấu xa, hung tàn. Hóa thành một vị đạo nhân Phật đi khất thực dừng chân trước thềm Ôm bình bát, đứng trang nghiêm, Anh chồng đi vắng, vợ liền nhảy ra Tay xua đuổi, miệng hét la
07/01/2018(Xem: 7746)
Sau mỗi lần có dịp viếng thăm các chứng tích như tượng đài, lăng mộ, viện bảo tàng, nhà lưu niệm, ..., của những nhân vật mà cuộc đời phần nào liên quan đến đời sống vật chất hay tinh thần, sự thịnh suy ,... của một nhóm người, một dân tộc, một vùng, một quốc gia,..., tôi ra về lòng những bâng khuâng với hai câu : Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên.
21/12/2017(Xem: 3772)
Anh sinh ra và lớn lên ở miền gió cát khô nóng Phan Rang. Là một Phật tử thuần thành, lại được phước báu khi có đến hai người con trai xuất gia, nên nhân duyên đưa đẩy đã trở thành đạo hữu của tôi qua nhiều lần hội ngộ lạ lùng ở các thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Kết tình đạo hữu với nhau đã gần mười năm rồi, mỗi lần gặp mặt, tôi và anh đều tay bắt mặt mừng, trò chuyện thân mật, nhưng người huyên thiên lúc đàm đạo là anh, còn tôi thì cứ chỉ biết gật gù, mỉm cười, họa hoằn lắm mới buông một đôi câu phụ họa. Anh quý mến tôi ở điểm đó.
15/12/2017(Xem: 6309)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 87070)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
29/11/2017(Xem: 6613)
Trong loạt bài Kể Chuyện Đường Xa lần này, người viết đặt thêm tên cho mục này Vòng Quanh Thế Giới, để có cùng tên với loạt phóng sự sẽ đưa lên tvtsonline.com.au với nhạc hiệu mở đầu của bài “Vòng quanh thế giới” người viết sáng tác gần bốn thập niên trước đây. Từ năm 1990, chúng tôi đã bắt đầu viết bút ký với chuyến đi Bangkok (Thái Lan) và loạt bài cuối cùng là chuyến du lịch Âu Châu vào năm 2015.
27/11/2017(Xem: 4835)
Nếu chấp nhận thuyết nhân duyên của Đạo Phật thì có thể dễ dàng, giải thích cho mọi tình huống và mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời nầy. Nhân duyên hay duyên sanh cũng tương tự với nhau. Đó là: „Cái nầy có cho nên cái kia có; cái nầy sanh cho nên cái kia sanh. Cái nầy diệt, cho nên cái kia cũng diệt theo“. Không ai trong chúng ta có thể biết trước được việc gì sẽ xảy đến cho mình về sau nầy cả; dầu cho chúng ta có cố gắng làm mọi việc tốt đẹp trong hiện tại; nhưng dư báo trong quá khứ, ai biết được thiện, ác còn lại bao nhiêu mà lường được. Chỉ khi nào nắp quan tài đậy lại trong kiếp nầy, thì lúc ấy ta mới biết được cái quả trong hiện tại là cái nhân như thế nào mà trong quá khứ của chúng ta đã gây ra và chính cái quả của ngày hôm nay sẽ là cái nhân cho ngày sau nữa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]