Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Phước và họa

21/01/201205:42(Xem: 10423)
05. Phước và họa
CÓ TRÍ TUỆ
LÀ BIẾT NHƯ THẬT VỀ…
Chân Hiền Tâm

Phước và họa

«Cuộc sống trao cho ta những món quà rất bất ngờ, dưới dạng cơ hội hay trong màu áo biến cố. Hãy đón nhận nó bằng vị thế của một người hiểu biết và biết làm chủ bản thân». Một câu nói khá đơn giản, nhưng mang đậm triết lý sống có thể giúp mình an vui trước những biến động của cuộc đời.

Đa phần ai cũng muốn sự tốt lành đến với mình hơn là bất hạnh. Ta đến chùa, tu hành, làm phước cũng để được cái phước, né cái họa. Song không phải ai cũng đạt được hoàn toàn những điều mình mong muốn. Thường thì hạnh phúc và khổ đau đan xen. Khi hạnh phúc thấy hân hoan. Lúc khổ đau lại vượt không nỗi. Một số đã tự tử. Đó là do chúng ta không đủ hiểu biết cũng như không thể làm chủ bản thân trong cả hai tình huống.

Ít ai biết được trong họa có phước, trong phước có họa. Phước, có khi là nhân tạo ra họa. Họa, có khi là nhân tạo ra phước. Đạo Đức Kinh nói: «Họa chừ, là nơi tựa nương của phước. Phước chừ, là chỗ ẩn nấp của họa». Họa phước khó lường, nếu không biết mà cứ một bề chấp nhất vào phước, thì chưa chắc đã hết khổ nạn.

I. HỌA TRONG PHƯỚC

Trong kinh Niết Bàn, Phật kể câu chuyện sau:

Nhà kia, có một người phụ nữ bước vào, người vừa xinh đẹp lại đeo ngọc ngà châu báu khắp cả thân. Chủ nhà thấy vậy, liền hỏi:

- Nàng tên là gì, ở đâu?

- Tôi là Công Đức Đại Thiên thưa ngài.

Chủ nhà lại hỏi:

- Nàng đến đây làm gì?

- Chỗ nào tôi đến, tôi có thể cho các thứ vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, voi ngựa, xe cộ, tôi tớ…

Chủ nhà nghe thế vui mừng hớn hỡ thầm nghĩ: «Do ta đầy đủ phước đức nên nay nàng này đã đến nhà ta». Nghĩ rồi bèn đốt hương, trải thảm hoa, cung kính đón mừng.

Chưa đâu vào đâu, bỗng nhìn ra thì thấy một nàng áo quần rách tươm, da thịt nứt nẻ, sắc mặt xám mét, dơ dáy, hôi hám đang chực chờ ở cửa. Chủ nhà thấy vậy liền bước ra hỏi:

- Nàng tên là gì, ở đâu?

- Tôi tên Hắc Ám. Tôi đến chỗ nào có thể làm cho nhà đó hao tài, tốn của.

Chủ nhà nghe xong, bèn cầm dao dọa:

- Làm ơn đi giùm. Nếu không ta sẽ chém.

Cô gái nói:

- Ông thật ngu si, chẳng có trí tuệ.

Chủ nhà liền hỏi:

- Sao bảo ta ngu si không có trí tuệ?

Cô gái trả lời:

- Người xinh đẹp đứng trong nhà kia, là chị tôi. Tôi thường đi chung với chị. Nếu ông đuổi tôi thời ông cũng đuổi chị.

Chủ nhà trở vào hỏi Công Đức Đại Thiên:

- Ngoài cửa có cô gái nói là em của nàng có đúng không?

- Thật là em gái tôi. Tôi đi chung với nó chưa có lúc nào rời nhau, dù tôi thường mang đến sự tốt đẹp còn nó mang lại sự xấu ác. Tôi thường làm việc lợi ích, còn nó thì mang đến sự suy hao. Nếu ai yêu tôi thì cũng phải yêu nó. Nếu cung kính tôi cũng phải cung kính nó.

Chủ nhà liền nói:

- Nếu có cả sự tốt lẫn xấu như vậy, thời ta chẳng cần. Mời hai nàng đi cho.

Hai chị em cùng đi, dắt nhau đến nhà một người nghèo. Người nghèo này lòng rất vui mừng, liền nói:

- Từ nay trở đi, xin hai nàng ở luôn nhà tôi.

Công Đức Đại Thiên liền hỏi:

- Chúng tôi vừa bị người xua đuổi, sao ông lại mời chúng tôi ở lại?

Người nghèo nói:

- Vì nàng nên tôi phải kính cô kia. Vì thế nên tôi phải mời cả hai ở lại.

Câu chuyện nói lên thực lý đối đãi ở thế gian. Có sanh thì có tử, có thiện thì có ác, có họa thì có phước, có ngắn thì có dài, có đẹp thì có xấu v.v… «Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không». Mình muốn thứ này thì có nghĩa là mình phải chấp nhận luôn thứ kia một khi nó đủ duyên, nhất là đối với vấn đề sinh tử.

Cô gái nói: «Ông không có trí tuệ», là nói ông không thấy được thực lý Duyên khởi đang chi phối thế giới này. Vì không thấy, nên ông muốn bắt cái này mà xua cái kia. Thánh nhân do thấy được thế đối đãi ấy, nên không mong phước cũng chẳng sợ họa. Phước tới không vui, họa tới không buồn. An nhiên, bình thản, cũng không thấy đó là phước hay họa. Kinh nói: «Đại Bồ-tát cũng vậy, chẳng nguyện sinh cõi trời, vì sinh thời có tử. Thế nên cả hai đều bỏ, không chút tâm luyến ái. Kẻ phàm phu chẳng biết lỗi lầm khổ hoạn của già, bệnh, chết nên tham luyến sinh tử».

Sách Hoài Nam Tửbàn rằng: «Họa là gốc của phước. Phước là gốc của họa. Họa phước luân chuyển tương sinh. Sự thay đổi ấy không thể nhìn thấy. Chỉ có thể biết khi cái quả của nó hiện hình. Do đó, khi được phước, chớ quá vui mừng mà quên đề phòng cái họa sẽ đến. Khi gặp họa, cũng chớ buồn phiền đau khổ đến nỗi tinh thần phải tổn hại. Việc đời hết may tới rủi, hết rủi tới may khó mà lường hết. Nên bắt chước Tái Ông mà giữ sự thản nhiên đối với những biến đổi thăng trầm trong đời».

Tái Ông, là một ông lão ở gần biên giới giáp với nước Hồ phía Bắc nước Tàu, có nuôi một con ngựa. Một hôm ngựa chạy qua nước Hồ mất dạng. Người trong xóm nghe tin đến chia buồn. Ông lão điềm nhiên nói:

- Biết đâu con ngựa chạy mất ấy lại là điều tốt cho tôi.

Vài tháng sau, con ngựa ấy quay về, dẫn theo một con ngựa của nước Hồ, cao khỏe. Người trong xóm hay tin liền đến chúc mừng, cũng nhắc lại lời ông lão đã nói khi trước. Ông lão cũng chẳng vui mừng, chỉ nói:

- Biết đâu việc được ngựa này sẽ dẫn đến tai họa cho tôi.

Việc ấy chẳng sai. Con trai ông lão rất thích cỡi ngựa, thấy ngựa Hồ cao khỏe thì thích lắm, liền nhảy lên lưng phóng chạy. Không ngờ, ngựa Hồ chưa thuần nên nhảy loạn xạ. Cậu con bị hất xuống đất, gãy xương đùi thành tật lớn. Người trong xóm đến chia buồn. Ông lão lại nói:

- Biết đâu nhờ họa này mà được phước khác.

Một năm sau, nước Hồ kéo quân sang xâm lấn Trung Nguyên. Trai tráng vùng biên đều phải xung vào quân ngũ chống giặc, chết sạch. Cậu con trai nhờ chân gãy không bị xung quân, nên còn sống.

Lời bàn trên cũng khá hợp với người tu thiền trên mặt thực hành: «Tám gió thổi không động». Lợi đến không động mà suy đến cũng không động. Vì tất cả đều do tương đãi mà có, không có chất thật.

Hiện thực, không phải khi nào có phước là liền có họa, hay có họa là liền có phước. Có khi phước đi liền với họa mà có khi không đi liền, vì nó còn được hạnh nghiệp hiện đời của mình quyết định. Ngay phước ấy mà tỉnh giác, tu tạo thêm phước thì phước thêm phước. Ngay phước ấy mà tạo ác nghiệp thì phước sinh họa.

Kinh Thánh của Thiên Chúa Giáo nói: «Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Thiên Chúa». Thánh Gia-cô-bê nói: «Hỡi những kẻ giàu có, các ngươi hãy than van rên rỉ về những tai họa sắp đổ xuống đầu các ngươi».

Nói như thế, không có nghĩa giàu có là lỗi. Nếu giàu có là lỗi, thì Phật cũng như Chúa Jêsu đã không khuyên mọi người bố thí. Nhưng chư vị đều khuyên mọi người bố thí thì biết cái quả giàu sang không phải lỗi, thậm chí còn là phước, vì nó là kết quả của những thiện nghiệp. Điều mà Kinh Thánh muốn nói đến, chính là mầm họa tiềm ẩn trong sự giàu sang ấy.

Nếu giàu sang mà mở lòng bố thí rộng rãi, không kiêu ngạo, không dùng đồng tiền vào những chuyện hại người hại vật, lại dành thì giờ tìm hiểu kinh sách để biết cái gì nên làm, cái gì không nên làm, thì sự giàu sang ấy không đưa đến những họa hoạn và bất như ý cho mình. Nhưng thường thì khi giàu sang rồi, mọi thứ liền đổi khác.

Việc mà người giàu có hay vướng nhất là kiêu mạn. Kiêu mạn, thể hiện qua nhiều cách: Coi thường người khác, dùng miệng lưỡi lấn át người, không cần nghe lời khuyên của ai, ai không làm mình vừa lòng liền tẩy chay v.v… Kiêu mạn là nhân của ác nghiệp, nên nó là một loại phiền não phá hoại công đức người tu rất nhiều.

Ngoài kiêu mạn ra, cuộc sống của mình còn thêm nhiều thay đổi. Không có tiền thì ăn gì cũng được. Có tiền rồi, mọi thứ thành cầu kỳ. Thay vì ăn đồ giết sẵn ngoài chợ, giờ phải là đồ tươi sống, giết liền ăn liền. Trước, có thịt ăn là may, giờ phải là óc khỉ, bồ câu quay, bào thai người v.v… Những việc như thế đều là cái nhân của tai ương và hoạn nạn.

Có tiền, cũng dễ sinh nhiều tật xấu như rượu chè, cờ bạc, trai gái v.v… là những thứ mà nếu không có tiền, mọi việc bị hạn chế hơn. Chưa kể một khi đời sống cầu kỳ đã trở thành nhu cầu cần thiết của mình, thì việc kiếm sao cho ra tiền trở thành mục đích tối hậu. Trong guồng máy danh lợi ấy, không thể không gây nghiệp ít nhiều. Đó là cái nhân của họa hoạn khi đủ duyên. Họa trong phước, phướctrong họa là đó. Thành giàu có mà không có trí tuệ thì chưa hẳn đã là phước, mà chính là cái nhân của hoạn nạn. Đó là lý do, chúa Jêsu và thánh Gia-cô-bê cảnh cáo các con chiên giàu có của ngài.

Mới thấy, những vị đang thành công giàu có mà chịu đến chùa, chịu đọc sách nghe băng giảng để tăng sự hiểu biết, rồi sửa đi những lỗi lầm của mình, lại hạn chế dần ăn uống ngủ nghỉ tập trung cho việc tu tập, nhất định không phải là hạng phàm phu bình thường.

Chuyện ngoài đời là thế, trong đạo cũng có nhiều thứ để bàn.

Tự lợi và lợi tha là hai mục chính của người tu Phật. Tự lợi, thì không có gì để bàn. Sang phần lợi tha, thành quả công đức hiển phát bắt đầu từ đó. Có khi lợi tha rồi, trước sau vẫn như nhau. Nhưng có khi lợi tha rồi thì y báo rực rỡ, tài vật sung mãn, chúng tôn sùng đông đúc. Việc gãy đổ cũng từ đó mà ra. Điều này đã xảy ra trong thực tế. Một vài vị trông có vẻ lừng lẫy hơn cả, lại là những vị sụp đổ mau chóng hơn ai hết. Là do không ý thức được cái «họa trong phước, phước trong họa»này đây. Không ý thức nên khi quả phước đến, liền buông lỏng giới luật, để cho kiêu mạn chi phối, chỉ thích nghe lời tán thán, không thích nghe lời nghịch tai dù nó mang lại lợi ích cho mình v.v… Xem ra, thành công đáng sợ hơn thất bại rất nhiều một khi ta thiếu tỉnh giác.

Cho nên, khi được một thành quả gì, cần phải tỉnh giác với nó hơn là hí hửng hay tham đắm. Phải nhớ trong phước có sẵn cái mầm của họa hoạn. Tỉnh giác thì mới không bị thành quả ấy dẫn chạy, cũng không vì cái thành quả ấy mà thay đổi tính tình, gây tạo những nghiệp nhân bất thiện, khiến mầm họa nẩy sinh.

II. PHƯỚC TRONG HỌA

Một bác nông dân có chú lừa chẳng may bị lọt xuống một cái giếng cạn. Chú lừa kêu la thảm thiết mà bác cũng chẳng biết làm cách nào. Cuối cùng, bác nông dân nghĩ cách lắp miệng giếng cho xong. Nghĩ rồi, bác cùng láng giềng xúc đất bỏ xuống. Chú lừa thấy chủ đổ cát xuống chôn mình, càng la dữ. Nhưng rồi chú bỗng im bặt. Mọi người nhìn xuống, cứ một lớp cát đổ xuống, chú lại giũ người cho cát rơi khỏi mình và giẫm chân lên. Cứ thế lớp đất cao dần và lừa ra khỏi miệng giếng.

Trong cuộc đời, thứ mình cho là xấu chưa hẳn đã là xấu. Thứ mình cho là tốt, chưa hẳn đã là tốt.Quan trọng là mình có như chú lừa kia, biết giũ mình ra khỏi những bất lợi, và dùng những bất lợi đó như một bàn đạp để vượt qua những khó khăn trong hiện tại hay không.

Lúc tôi còn mang cái nghiệp buôn bán, trong việc làm ăn có khi phải vay mượn để ứng tiền mua hàng đặt trước. Một lần, vay đâu cũng không được. Người, bình thường hay cho mình vay, giờ cũng không cho. Phải nói là rất bực vì thấy mất cái lợi trước mắt, bực thời vận của mình, bực người khó khăn với mình. Nhưng cuối cùng mới vỡ lẽ: Nếu vay được thì đúng là ôm đầu máu. Không biết lấy đâu ra tiền mà trả nợ. Bởi tay chủ tàu đã cầm tiền biến mất. Thiên hạ bị gạt nhiều vô kể. Lúc đó mới thấy biết ơn kẻ không cho mình vay tiền.

Còn nhiều việc khác nữa, khiến mình có kinh nghiệm hơn với những được mất ở thế gian. Ừ, được thì tốt, không được chưa chắc đã xấu. Cứ hành thiện và sống thiện là được. Nghiệp thiện mình làm sẽ tự có quả của nó khi đủ duyên. Ở đời, khó mà biết cái gì là xấu, cái gì là tốt …

Thường, những người có đủ phước đức mới có thể «Muốn cái gì liền ra cái đó. Tính cái gì, liền thành cái đó». Tôi không được cái phước ấy. Không tính thì yên mà tính thì nó không ra, hoặc ra trở ngược. Mở đầu cho sự «phản bội» ấy là cái chết của cha khi tôi mới 12 tuổi. Mọi mong muốn dự định to lớn cho tương lai té nhào. Việc «phản bội» ấy cứ lặp đi lặp lại liên tục trên từng sự việc nhỏ nhoi, khiến tôi phải qui nạp chúng thành một lý thuyết sống cho mình: Cần phải dừng suy nghĩ, mong muốn cũng như mọi tính toán cho tương lai hầu bảo toàn tánh mạng. Vì thế, bất cứ một lo toan nào cho tương lai khởi lên, tôi đều gạt qua một bên, chỉ biết làm tốt việc hiện tại. Không ngờ, cái tập ấy lại phù hợp với pháp «Biết vọng không theo» mà Hòa thượng chỉ dạy. Cũng phù hợp luôn với những gì mà Tổ Hoàng Bá đã nói: «Cứ quên mong muốn, Phật sẽ hiện tiền». Thế là cứ theo cái đà ấy mà đi không do dự, cũng không mấy khó khăn đối với việc phải làm.

Song vào đạo rồi, mới biết chỉ « gạt qua » thôi chưa đủ, cần vận dụng trí tuệ soi chiếu để những gì đã « gạt qua » đó không tồn động trong tiềm thức. Xem ra cái họa ngoài đời lại là cái phước trong đạo của mình.

Bù lại, người bạn tôi, vì tính cái gì cũng thành, nên rồi tính mãi. Cứ theo dòng đời mà đi không thể dừng nghỉ. Bỏ sở đoản thì dễ, bỏ sở trường rất khó. Nghèo khó hoạn nạn vậy dễ tu. Danh vọng tiền bạc đang lên, bỏ thành công không phải dễ. Kẻ bỏ được, phải nói có chủng thượng căn. Nói chủng, là nói đến cái mầm. Muốn sinh sôi nẩy nở còn cần chuyên tâm.

III. TỔNG KẾT

Phước họa ở thế gian là những hiện tượng tương đối, tương sinh. Tương đối là đối nhau. Tương sinh là sinh nhau. Vì vậy, hành thiện để có quả báo tốt là việc phải làm, nhưng không nên chấp trước vào đó. Muốn vậy ta cần có trí tuệ và định lực. Trí tuệ, để soi thấu được bản chất của vạn pháp. Định lực, mới có thể dừng đi những việc không nên làm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4672)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43792)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4383)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4335)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4243)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6352)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4629)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4043)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 24947)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24038)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]