Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

[25-36]

13/12/201116:29(Xem: 6204)
[25-36]
VI TIẾU
Tác giả: Viên Minh

[25-36]

25. BỊ TỰ DO NGĂN NGẠI

Một thiền sinh mới nhập môn quen sống phóng túng theo kiểu “thiền du hí” của anh từ lâu, nên không thể nào chấp nhận luật lệ quá nghiêm cẩn của thiền viện. Anh nói:

- Thiền là tự do giải thoát. Thiền giải phóng con người ra khỏi mọi ràng buộc, vì sao thiền viện này giới luật khắt khe như vậy?

Sư nói:

- Người thật sự tự do thì có thể ung dung trong ràng buộc, cho nên ràng buộc tuy có mà không. Còn người không chịu nổi ràng buộc, vì chưa đủ sức tự tại vô ngại, cho nên ràng buộc vốn không bỗng trở thành ngăn ngại. Tiếc thay, chính anh đã bị tự do ngăn ngại mất rồi!

۞

Lời góp ý:

Có hai thứ ngăn ngại:

- Ngăn ngại bên trong là những sợi dây tự mình ràng buộc như chấp ngã, hoài nghi, thủ trước, dục ái, hữu ái, phi hữu ái, sân hận, trạo cử, vô minh, tật đố, xan tham, lười biếng v.v...

- Ngăn ngại bên ngoài là những ràng buộc trong điều kiện đời sống, hoàn cảnh xã hội, không gian thời gian và những luật lệ khuôn phép v.v...

Cũng có hai loại tự do:

- Tự do nội tại là tự do của người tự mình giải thoát ra khỏi những ràng buộc của chính mình (loại ngăn ngại thứ nhất), không để cho vô minh, ái dục và bản ngã sai sử, buộc ràng và ngăn ngại.

- Tự do ngoại tại là thứ tự do không muốn bị ràng buộc bởi điều kiện xã hội, bất chấp luật lệ, tự tung tự tác, phóng túng tùy tiện.

Đối với những người đã được tự do bên trong thì những ràng buộc bên ngoài không còn là điều kiện ngăn ngại, nên đối với họ “tự do là ung dung trong ràng buộc”. Đó chinh là tự tại vô ngại vậy.

Nhưng đối với người mơ ước một đời sống tự do phóng túng bên ngoài thì tất cả mọi điều kiện thực tế của cuộc sống đều trở nên ngăn ngại. Những luật lệ khuôn phép đúng với hoàn cảnh xã hội thường không phải là ràng buộc mà chính là tạo điều kiện cho một đời sống tương đối tự do. Tự do bên ngoài luôn luôn là tự do tương đối, cho nên mơ ước một sự tự do quá tuyệt đối giữa cuộc đời tương đối chính là tự ràng buộc mình thêm.

Ví như một người tự lấy giây trói chặt mình (loại ngăn ngại thứ nhất) rồi lại muốn mang nguyên những trói buộc như thế mà đi lại tự do thì càng bị ý muốn tự do đó hành hạ thêm. Đó là hạng người bị tự do ngăn ngại vậy!


26. QUỞ TRÁCH THIỀN ĐỊNH

Một thiền sinh quá tinh tấn tham thiền nhập định đến quên ăn bỏ ngủ. Sư trách:

- Anh tham thiền chỉ thêm dục vọng, chẳng ích gì đâu.

Ít hôm sau đi qua thiền đường, thiền sinh ấy thấy Sư đang dạy một số hành giả về cách tọa thiền, anh tức giận hỏi:

- Hôm trước Thầy quở trách tham thiền sao hôm nay Thầy lại dạy tọa thiền nhập định?

Sư mắng :

- Ta quở trách anh tham thiền chứ đâu có quở trách thiền định.

۞

Lời góp ý:

Thiền định tự nó không sai, chỉ có người sử dụng nó sai mà thôi. Chỉ trích thiền định là hồ đồ và ấu trĩ, vì thiền định có cái dụng của nó nếu như sử dụng đúng thời, đúng chỗ, đúng căn cơ và đúng “pháp vị” của nó.

Có người nghe các Thiền Sư nói: “ngồi thiền không thành Phật”, “chỉ lấy đá đè cỏ”, “mài gạch thành gương”,... rồi thẳng tay tống khứ thiền định ra khỏi thành trì tu tập! Nếu chấp thiền định làm cứu cánh thì quả là không thể thành Phật, cao lắm chỉ đến Sắc Giới, Vô Sắc Giới mà thôi. Nhưng thiền định được sử dụng thiện xảo lại là “năng sinh tuệ”và giải thoát ra được biết bao phiền não giữa cõi trần.

Sư quở trách một thiền sinh vì anh ta quá ham mê thiền định đến nỗi bỏ quên đời sống thực mà đáng lẽ anh ta phải thâm quán từng giây từng phút. Thiền định như thế chỉ tự cô lập, giam hãm, ràng buộc mình và tách mình ra khỏi dòng biến hóa của pháp giới tánh (Sabhàva - dhammatà).

Một hôm Đức Phật lấy một sợi râu hạt lúa mì cầm lên và nói: “Này các Thầy tỳ kheo, nếu như cầm không đúng hướng thì sợi râu này sẽ không đâm thủng ngón tay. Cũng vậy, pháp mà Như Lai tuyên thuyết, nếu như không hành đúng hướng, sẽ không đâm thủng vô minh ái dục”.

Đức Phật không hoàn toàn tán dương thiền định, cũng không hoàn toàn bác bỏ thiền định. Ngài dạy:“Như Lai chỉ tán dương thiền định nào đoạn giảm bất thiện pháp (5 triền cái)và tăng trưởng thiện pháp (5 thiền chi),chứ Như Lai không tán dương thiền định nào tăng trưởng bất thiện pháp và đoạn giảm thiện pháp”.

Bởi thế người xưa có lý khi nói:

Thật tế lý địa bất thọ nhất trần

Sự sự môn trung bất xả nhất pháp.


27. CỬA TRỜI RỘNG MỞ

Chư Thiên cõi trời Đao Lợi nhìn xuống cõi trần thấy nhiều người đau khổ, động lòng từ liền bạch với vua trời Đế Thích:

- Tâu Bệ Hạ, xin Ngài rủ lòng từ bi mở cửa cho người trần được vào thiên giới, như thế mọi người mới được công bằng bình đẳng.

- Không được, nghiệp dĩ thế nào phải chịu như vậy mới gọi là công bằng.

Nhưng Chư Thiên cứ tâu mãi nên Vua Trời đành cho mở cửa.

Chẳng bao lâu Vua Trời phải triệu tập Chư Thiên để thành lập lực lượng phòng chống tệ nạn xã hội và soạn thảo bộ luật hình sự.

۞

Lời góp ý:

“Trí không bi là trí thông minh điêu xảo

Bi không trí là bi thương hảo thương quàng”

Thật vậy, nhiều người lầm tưởng tình thương dung tục được phóng đại thành lòng từ bi. Lòng từ bi và tình thương yêu chẳng có chút quan hệ nào với nhau cả, thậm chí đôi khi còn trái ngược với nhau nữa là khác.

Từ được chính thức định nghĩa là không sân, và bi là không hại. Một người trong tâm không một mảy may hờn giận oán thù và không một manh tâm ác ý làm hại bất cứ chúng sanh nào, người đó hẳn đã loại bỏ ra ngoài ý niệm thường tình về thương và ghét. Thương và ghét là tâm địa chúng sanh trong vòng bản ngã. Còn từ bi thật sự thì vô ngã, vô lượng và vô cùng.

Lòng từ bi thâm sâu, quảng đại mà dường như dửng dưng lợt lạt (Lão Tử: tình thâm nhược đảm),lắm khi còn có vẻ như tàn nhẫn, vô tâm và bất động, nhưng như thế mới thật là lòng từ bi vô hạn. Dường như tàn nhẫn vô tâm bởi vì như thế mới có thể sáng suốt nhìn thấy chúng sanh chịu nhân quả nghiệp báo rành rành mà tâm không hề dao động. Trắc ẩn xúc động chỉ có trong lòng những kẻ tình thường.

Vì vậy từ bi không phải là ra tay cứu vớt người ác vào thiên đàng. Đó là bi không trí. Từ bi của bậc trí là chỉ khai thị cho người ác biết rõ nguyên nhân đau khổ mà họ tự làm ra. Nhưng ngay cả việc khai thị cũng phải tùy căn duyên chứ không phải bất kỳ ai cũng khai thị được.

Đem người ác vào thiên đàng đó là tình thương dung tục của kẻ ngu, vì hậu quả tất nhiên là... thiên đàng dậy sóng. Thấy người ác gặt quả khổ mà không một chút động lòng thương cảm của kẻ tình thường đó mới là từ bi đầy trí tuệ, vì đã thấy rằng chính quả khổ dạy cho người ác biết sai lầm của mình nên không để tình cảm chủ quan xen vào can thiệp. Đó là một cách thể hiện lòng từ bi tự nhiên của pháp (Thiên Chúa giáo: Bác ái của Đức Chúa Trời).

Đức Chúa nói :”Hãy vác thập tự giá mà vào thiên đàng”.Nghĩa là gánh chịu khổ đau chính là cách giải thoát ra khỏi khổ đau vậy.


28. NẶNG KÝ

Thấy một tín đồ thường đến chùa bố thí, cúng dường học hỏi giáo lý, tu tập thiền định rất siêng năng, Sư hỏi:

- Ông tinh tấn như vậy để cầu gì?

- Thưa Thầy, con muốn lập bồi công đức, cho đến khi phước huệ đầy đủ hầu có thể đắc thành chánh quả.

Sư nói:

- Nếu vậy lúc thành chánh quả chắc ông phải nặng ký lắm!

۞

Lời góp ý:

Hướng tu hành chân chính không phải là cố gắng xây dựng cho mình thành một con người lý tưởng tài năng đức độ. Không phải bồi đắp từng chút công đức, sở tri và sở đắc cho đến khi hoàn thành “tác phẩm tuyệt đối cuối cùng”.

Chân, thiện, mỹ cuả tự tánh pháp (Sabhavàdhammatà) vốn đã tự viên mãn (Tổ Huệ Năng:hà kỳ tự tánh bổn tự cụ túc), chẳng phải tầm cầu (bất luận cầu chơn),chẳng cần thiết lập (chơn bất lập).Chỉ vì vọng khởi (vô minh ái dục)nên bản ngã sanh. Lấy bản ngã mà hoàn thiện con người lý tưởng, quả vị lý tưởng thì cũng hoàn là bản ngã. Đó chỉ là dục vọng của Tiểu ngã muốn trở thành Đại ngã của tư tưởng Bà Là Môn.

Bản ngã cùng với tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến và tất cả thuộc tính khác của vô minh ái dục là nguyên nhân của tất cả luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau. Đó là thế giới mộng ảo huyễn hóa. Vì vậy tu hành giống như tỉnh dậy giữa cơn ác mộng đêm trường, bỗng nhiên những vui buồn sợ hãi tiêu tan và cái chân như tự tánh (yathàbhùtà) hiển hịên toàn chân. Vì vậy Đức Phật dùng chữ “diệt”để diễn tả Diệt đế (chân tánh, Niết-bàn) khi Ngài dạy: “Pháp Như Lai tuyên thuyết chỉ có nhất hướng viễn ly, ly tham, ly chấp, đoạn xả, đoạn diệt, tịch tịnh, thắng trí, giải thoát, Niết-bàn”.

Đoạn diệt là điều mà bản ngã uý kỵ, nên nhiều người khi nghe nói đến đoạn diệt thì vô cùng sợ hãi, vội vàng lên án là tiêu cực, tiểu thừa. Nhưng tựu trung đoạn diệt chỉ là đoạn diệt chấp ngã chấp pháp cùng với thuộc tính vô minh ái dục của nó mà thôi. Ví như người nhìn lầm bụi cây là bóng ma sinh tâm sợ hãi. Khi nhìn kỹ thấy đó chỉ là bụi cây thì cả bóng ma lẫn sợ hãi đều viễn ly, đoạn diệt. Kinh Viên Giác nói:“Tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác”, và Lão Tử cũng nói:“Vi đạo nhật tổn, tổn chi hựu tổn dĩ chí ư vô vi”(hành đạo ngày càng bớt, bớt rồi bớt nữa cho đến vô vi).

Vậy tu hành không phải là bồi thêm cái ngã cho nặng ký mà chính là bớt đi (ly, tổn, đoạn, diệt) tất cả mọi ràng buộc của vọng ngã để trở lại bản lai diện mục xưa nay vốn đã tròn đầy.


29. CON NGƯỜI THẬT

Có ông tăng thuyết pháp rất lưu loát nhưng giới hạnh rất bê bối. Những người nghe pháp thì rất nể trọng pháp sư còn những người thấy đời sống của ông thì không thể nào chịu phục.

Được hỏi về con người thật của vị pháp sư, thiền sư nói:

- Con người thật nhập Niết bàn rồi.

۞

Lời góp ý:

Khi còn vô minh ái dục thì mỗi người đều có hai bộ mặt, đó là con người thật và con người giả. Con người giả chính là vọng ngã, thủ đắc bởi những yếu tố ngoại lai như ý niệm, tư tưởng, quan niệm, tình cảm từ môi trường sống: hoàn cảnh xã hội, trường học, gia đình, bè bạn,... Những tập tính hay tập khí đó được huấn tập dần dần cho đến khi mình trở thành... mộtkẻ lạ mặt(từ của Albert Camus), càng ngày càng xa rời tự tánh, càng xa lạ với con người thật.

Con người giả cũng không phải đơn thuần, anh ta vô cùng đa diện: khi thì anh, khi thì em, khi thì cha, khi thì chú, khi vui lúc giận chẳng chút giống nhau. Vì vậy anh ta luôn luôn tự mâu thuẫn với chính mình cả tri thức lẫn tình cảm, cả hành động lẫn lý thuyết. Vì vậy chẳng có gì ngạc nhiên khi anh ta nói một đường làm một nẻo. Thực ra ai mà chẳng thế khi mình còn đa mang những con người xa lạ.

Còn con người thật ở đâu? Sư nói: “Con người thật nhập Niết bàn rồi”.Câu này hàm ý hai nghĩa:

1) Con người thật đã (bị con người giả giết) chết rồi. Ý nói anh ta chỉ là con người giả chứ làm gì còn có con người thật.

2) Con người đích thực chính là bản lai diện mục, chân như tự tánh, mà chân như tự tánh thì lúc nào lại chẳng ở nơi Niết bàn.


30. VÔ THƯỜNG

Một chú tiểu đang tưới phong lan, có người khách hỏi:

- Chú đã biết đời là vô thường sao còn trồng làm gì thứ vô thường tạm bợ ấy?

Chú tiểu nói:

- Nhưng nếu chúng mà thường thì tôi còn trồng làm gì nữa?

۞

Lời góp ý:

Khi nghe Đức Phật dạy “Sabbe Sankhàrà aniccà’ti”(tất cả hữu vi là vô thường), người ta nghĩ rằng một khi mọi hiện tướng đều biến đổi không ngừng thì cần phải dẹp bỏ hết đi để tìm cái gì thường còn bất biến. Đó là một hiểu lầm to lớn. Thấy vô thường chính là để đừng rơi vào ảo tưởng thường còn. Ví dụ khi ta thấy đúng thực chất một đóa hoa có nở có tàn thì ta không còn bị ảo tưởng của dục vọng ước mong đóa hoa còn mãi để rồi rước lấy thất vọng khổ sầu. Cái khổ phát xuất từ nguyên nhân thấy sai chứ không phải ở bản chất vô thường của hữu vi pháp.

Lại nữa, thật ra “hữu vi pháp” hoặc “các hành” ám chỉ tâm sinh diệt của chúng sanh hơn là các ngoại tướng (sắc, thanh, hương, vị, xúc). Chính tâm sinh diệt này tác thành bản ngã, tư tưởng, không gian, thời gian và đau khổ. Cũng vậy, khi nói “vô vi, vô sinh diệt” là nói tâm không đông, không thối chuyển hoặc tâm không sinh ngã pháp, chứ không phải là thường tồn vĩnh cửu.

Vì ngộ nhận tai hại như thế nên người ta toan lìa bỏ thế gian vô thường tạm bợ để đi tìm thế giới thường hằng vĩnh cửu. Đó là “hướng ngoại cầu huyền”nên Ngài Huệ Năng một phen phải xác định:

“Phật Pháp tại thế gian

Bất ly thế gian giác,

Ly thế mích bồ đề

Cáp như tầm thố giác”.

Người giác ngộ được bản chất vô thường của hữu vi pháp, có thể ung dung chơi trò chơi “như huyễn hạnh” để chỉ cho kẻ mê thấy đời là hư huyễn.


31. PHÂN TÂM NHỊ DỤNG

Sư đến viếng một nhà Phật tử, thấy bà chủ nhà vừa thờ Phật vừa thờ Thần Tài, Sư hỏi:

- Bà thờ Thần Tài để làm gì?

- Dạ, để cầu tài.

- Thế còn thờ Phật?

- Dạ, để cầu giải thoát.

Sư nói:

- Bà quả là có tài phân tâm nhị dụng.

۞

Lời góp ý:

Kẻ mê tham lam bắt cá hai tay, vừa muốn ôm đồm, vừa cầu giải thoát. Đã khởi tâm cầu sở đắc thì tất nhiên tự mình phân hóa nhị nguyên. Như trong câu Pháp Cú Đức Phật đã dạy: “Kẻ ngu đi tìm sở đắc chỉ để chẻ đầu ra làm hai”.

Người bố thí để cầu giàu sang thì sao còn gọi là bố thí, kẻ xả lợi để mua danh thì sao còn gọi là xả lợi? Cũng vậy, kẻ muốn giác ngộ giải thoát lại cầu tri thức và sở đắc thì muôn đời vẫn nằm trong vòng luẩn quẩn buộc ràng.

Tuy nhiên, khi đã dứt mê tuyệt ái thì trong một pháp tự nọ lại có đủ mọi thứ mà không hề mâu thuẫn. đúng là “Nhất Phật quốc tại nhất sa trung”mà người mê không thể nào thấy được. Vọng cầu thì “pháp pháp tương loạn”,hết mê thì“pháp pháp tự tức”, và những pháp tương khắc tương sinh trở nên hài hòa bất nhị.

Lão Tử nói:“Bậc Thánh nhân biết dùng vô vi mà xử sự thì thấy có - không cùng sanh, khó - dễ cùng thành, dài - ngắn cùng so, cao - thấp cùng chiều, giọng - tiếng cùng họa, trước - sau cùng theo”mà chẳng hề chống trái.

Tiếc thay, kẻ mê cứ phân tâm đuổi bắt hai chiều để đánh mất thực tại hiện tiền vốn còn nguyên vẹn.


32. BA VỊ THẦN

Thần Sáng Tạo, Thần Bảo Trì và Thần Hủy Diệt là ba vị thần nắm giữ vận mạng muôn loài.

Vào một thời cảnh chiến tranh, thiên tai, bịnh tật phát sinh ra nhiều khiến chúng sinh chết chóc, cảnh vật tiêu điều... Vì vậy chúng sinh than oán Thần Hủy Diệt.

Thần Hủy Diệt thấy vậy nói với hai vị kia:

- Chúng sanh than oán tôi, hơn nữa tôi làm việc cũng đã mệt, nhị vị để tôi ngủ một lát.

Nhưng chưa được bao lâu Thần Hủy Diệt lại bị đánh thức và nghe Thần Sáng Tạo hớt hải nói:

- Bây giờ dưới trần lại quay qua than oán tôi, vì không những nạn nhân mãn tràn lan mà tất cả mọi vật đều sinh sôi nẩy nở chật ních không còn chỗ nào để thở...

Thần Hủy Diệt ngái ngủ nói:

- Thì anh ngưng sáng tạo đi là xong chứ gọi tôi làm gì !

Trong khi nguy kịch, Thần Sáng Tạo vội vàng ngưng việc. Thế là lập tức dưới trần tất cả đều trở nên im lìm bất động. Đó là hậu quả tài năng đơn phương của Thần Bảo Trì mà người trần thường hay mến chuộng!

۞

Lời góp ý:

Tôn giáo ấn độ thời xa xưa đã thần hóa tính chất biến dịchSINH - TRỤ - DIỆT của vũ trụ vạn vật thành ba vị Thần:SÁNG TẠO, BẢO TRÌvà HỦY DIỆT.

Sinh - Trụ - Diệt là định luật vô thường của sự sống, không mấy ai ưa già - bịnh - chết, nên cũng chẳng bao người thích sự diệt vong.

Nhưng nếu vạn vật có sinh mà không diệt thì chẳng bao lâu vũ trụ bao la cũng khó tìm chỗ cắm dùi ! Hoặc nếu vạn vật có diệt mà không sinh thì không gian vô tận cũng là hư vô trống rông. Còn nếu vạn vật không sinh thêm, chẳng diệt bớt thì sao? Thì chắc chắn vạn vật sẽ trở nên ù lì, bất động, tuy được bảo trì nguyên vẹn, trường tồn vĩnh cửu, nhưng liệu có còn là lý tưởng ước mơ của mọi người nữa không, hay cõi vĩnh hằng chỉ là nghĩa trang đời đời khô chết?

Vô thường sinh diệt không phải là một kết luận bi quan, mà chính là vẻ đẹp vĩnh hằng của sự sống. Sinh trụ là thành tố của sự sống mà hoại diệt cũng là thành tố của sự sống. Sự sống chẳng THƯỜNG vì nó“sinh sinh nhi họa”, sự sống khôngĐOẠN vì nó “miên miên nhược tồn”.Chính vì không thấy thực tánh “vô thường thị thường”mà sinh tâm chấp thường chấp đoạn.

Mê chấp thế giới thường còn để rồi đắm trong sinh diệt!

Chối từ trần gian tạm bợ cho nên vọng đến vĩnh hằng!


33. BẢO VỆ ĐẠO PHÁP

Một thanh niên mới xin xuất gia vào thiền viện đã tỏ vẻ rất nhiệt tình… Thấy vậy, Sư hỏi:

- Chí nguyện xuất gia của anh là gì?

Thanh niên nói:

- Con muốn trở thành một người bảo vệ đạo pháp.

Sư nhìn người thanh niên từ đầu đến chân mà nói:

- Có lẽ anh nên để đạo pháp bảo vệ anh thì hơn.

۞

Lời góp ý:

Khi nói đến bảo vệ Đạo Pháp, nhiều người lầm lẫn một bên là bảo vệ hệ thống Giáo Hội hoặc tông phái, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, bảo vệ truyền thống lễ nghi, kinh điển, giáo điều, đền chùa hoặc các biểu tượng đạo giáo v.v..., và một bên là lấy việc học đạo, hành trí, tu chứng và hoằng dương chánh pháp để giữ gìn chân lý.

Thực ra chân lý hay Đạo Pháp không cần phải giữ gìn bảo vệ, vì chân lý dù cho có bị nhận xuống bùn thì vẫn là chân lý, còn tà đạo dù có được tâng bốc tận mây xanh cũng vẫn là tà đạo.

Ngược lại, chân lý bảo vệ chúng ta hơn là chúng ta bảo vệ chân lý. Vì thế, Đức Phật dạy: “Thật vậy, Pháp hộ trì cho người hành trì Pháp”(Dhammo have rakkhati Dhammacàrì). Người hành bốn Thắng Xứ mới xứng đáng là người bảo vệ Đạo Pháp:

1) Tuệ thắng xứ(Pannadhitthàna): trí tuệ (bát nhã) thắng tri pháp đúng thực tướng (vô ngã), không bị khổ lạc chi phối, không rơi vào hữu vô, không chấp thủ thường đoạn, diệt tận khổ ưu, thành tựu thánh trí, chứng ngộ Niết Bàn.

2)Đế thắng xứ(Sacc’àdhitthàna): không dao động, không điên đảo, không hư vọng, chân thực kiên cố, vô thượng an ổn Niết Bàn.

3)Xả ly thắng xứ(Càg’àdhitthàna): buông bỏ tất cả chấp y: bản ngã, ngũ uẩn, trạng thái, cõi giới,... kể cả chấp y Niết Bàn.

4) Tịch tịnh thắng xứ(Upasam’àdhitthàna): đoạn tận tham, sân, si,... cùng với tất cả các triền phược, kiết sử, tùy miên v.v..., tịch diệt hiện tiền, tự tại vô ngại.

Người như thế còn được Đạo Pháp bảo vệ, huống chi kẻ phàm phu mà có thể bảo vệ Đạo Pháp.


34. TRIẾT HỌC LÀ GÌ

Để mở mang kiến thức ngoại điển, Sư cho tăng chúng học thêm triết học Đông Tây.

Sau nhiều giờ học, một chú tiểu hớn hở nói với bạn:

- Đến nay, tôi đã hiểu triết học là gì rồi.

Chú tiểu kia thì đang mù tịt cái môn phiền phức này nên như người chìm vớ được phao:

- Nói nghe mau đi, triết học là gì vậy?

-Ối, có gì đâu! Triết học chỉ là một hệ thống ngôn ngữ phức tạp nói về những điều giản đơn đó mà!

۞

Lời góp ý:

Triết học chỉ là hệ thống ngôn ngữ phức tạp, mang tính tri thức bác học, còn Đạo thì giản dị vô ngôn, vì thế mà “có giản dị thì mới thấy được chân lý của trời đất”(Dị giản nhi thiên hạ chi lý đắc hỷ). Triết học lấy lý trí để nắm bắt, còn Đạo lấy “vô tri”mà thể nhập. Đạo để mà sống chứ không phải để thức tri. Trí tuệ minh bạch chính là vô tri, bởi vì còn có một chút “lập tri’ của kiến thức là mây mù vô minh che phủ. Vì thế khi phải phương tiện dùng ngôn ngữ làm ngón tay chỉ mặt trăng, Đức Phật không dùng hệ thống ngôn ngữ bác học phức tạp Sanskrit của Bà La Môn, mà dùng ngôn ngữ Pàli giản dị bình dân của người Màgadha. Còn Lão Tử thì nói: “Sáng suốt mọi bề có thể vô tri được chăng?”(Minh bạch tứ đạt năng vô tri hồ), hoặc“biết dừng lại ở chỗ không biết là tới rồi vậy”(cố tri chỉ kỳ sở bất tri chí hỷ). Thế thì một thiền sư cũng có lý khi nói:“Chân lý mà đem ra quy định quả là việc làm của kẻ ngốc nghếch”.


35. NGHIỆP CÒN NẶNG

Thấy một bà tín nữ đem một lồng chim tới chùa, chú tiểu mừng rỡ nói:

- Để tôi phóng sinh cho.

Bà tín nữ giải thích là bà không có ý định phóng sinh tại thiền viện, bà chỉ gởi lại nhờ chú tiểu giữ để ngày mai đem xuống chùa dưới phóng phóng sinh trong dịp lễ ở đó.

Chú tiểu tiu nghỉu than thầm: “Đem chim rừng về lại phố, lại để đến ngày mai đi thêm cả buổi đường nữa, chắc nghiệp bầy chim này còn nặng!”

۞

Lời góp ý:

Những người không thấy Đạo, dù có tu hành “vị tha” cách mấy cũng chỉ làm khổ thiên hạ. Nếu phóng sinh để đổi lấy lợi, lấy danh, lấy quả báu vị lai thì đâu phải là vị tha mà chỉ là vị kỷ, không những không phước mà còn thêm tội.

Phóng sinh là một hành động đúng đắn tự nhiên khi người ta biết tôn trọng sự sống, chứ không phải đem sinh mạng của chúng sanh làm vật bán buôn danh lợi.

Người không có vô minh ái dục tự nhiên có trí tuệ, có trí tuệ tự nhiên có từ bi, có từ bi đương nhiên thấy chúng sanh bị nạn thì cứu v.v... Việc làm đó không hề có bóng dáng của bản ngã làm gì có ích kỷ với vị tha.

Mặc Tử nguyện mài mình từ đầu đến chân để lợi thiên hạ, chính vì lòng kiêm ái.

Dương Tử thề dù chỉ mất một sợi lông mà lợi thiên hạ cũng không làm, đâu phải vì ích kỷ mà chỉ sợ người đời ham lợi khổ thân.

Vậy trên đời dễ mấy ai biết thế nào là vị tha, thế nào là ích kỷ.


36. HÃY ĐỂ YÊN

Một giáo sư triết học muốn biết Đạo Phật chủ trương “Thường tại luận” hay “Vô thường luận”.

Sư nói:

- Đó là những hý luận tà kiến.

Giáo sư ngạc nhiên:

- Như vậy Đạo Phật chủ trương luận nào?

Sư đáp:

- Chân lý nằm ngoài chủ trương và lý luận, cho nên Đạo Phật không chủ trương luận nào cả. Cái gì vô thường hãy để yên cho nó vô thường, cái gì thường tại hãy để yên cho nó thường tại.

۞

Lời góp ý:

Các triết gia, các nhà tư tưởng toan nắm bắt chân lý bằng những kết luận vu vơ phiến diện của mình, rồi gán lên cho nó đủ thứ nhãn hiệu: đoạn - thường, cấu - tịnh, hữu - vô, nhất - dị,..., tưởng rằng có thể nhốt chân lý trong cái lồng quan niệm vàng son của mình, chẳng ngờ, chính quan niệm nhốt họ vào ngục tù, còn chân lý thì muôn đời vẫn ung dung tự tại.

Thường - đoạn, có - không, tăng - giảm, nhất - dị v.v... đều đúng cả vì pháp chẳng thiếu một phương diện nào, nhưng cũng đều sai cả khi ta chỉ toan kết luận một chiều. Cho nên, trong Kinh Brahmàjàla, Đức Phật gọi sáu mươi hai quan niệm của Triết học ấn độ thời bấy giờ là hý luận tà kiến.

Như những người mù sờ voi, vì không thấy toàn diện, nên sờ đụng phần nào liền kết luận voi là phần đó.

Muốn thấy chân lý một cách trọn vẹn chỉ cần biết lặng lẽ chiêm quan, hồn nhiên cảm nghiệm, hay nói một cách khác là phải biết... chính mình là chân - lý - không - hai.

Đứng ngoài mà kết luận thị phi, rồi bỏ đoạn lấy thường, chê tướng chọn tánh, xả hữu chấp vô v.v..., không những là thái độ lăng mạ Pháp, mà còn tự chìm sâu trong luân hồi sinh tử. Sao không bỏ cái ngã mình đi để cho chân lý được yên thân như nó đang là, như chân như thật?


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/09/2016(Xem: 5691)
Vào cuối đời Tây Tấn, vua Huệ Đế ngu tối, việc triều chính đều do hoàng hậu Giả thị chủ trương. Giả hậu là người nham hiểm, lại biết quyền biến đởm lược, mưu giết các thân vương, phế bỏ Thái tử. Triệu Vương Luân bèn phẫn uất, cử binh giết Giả hậu, truất phế vua Huệ Đế mà tự xưng lên làm vua. Các thân vương khác thấy vậy cũng dấy binh tranh giành lẫn nhau, cốt nhục tương tàn, làm cho nhà Tấn suy yếu.
22/08/2016(Xem: 4624)
Sáng hôm nay trong thinh lặng của một sáng chủ nhật mùa đông, tôi muốn dành tâm trí thảnh thơi để viết vài hàng trả nợ cho cô bạn tí hon ngày xưa. Nợ vì tôi cứ hẹn sẽ viết cho nàng. Gọi là bạn nhưng chưa bao giờ nói chuyện, gọi là bạn vì học cùng trường. Tí hon vì nhỏ hơn tôi ba tuổi. Từ nhỏ, tôi có một tật rất xấu, tôi xem ai nhỏ tuổi hơn tôi là con nít. Vì sao chỉ hơn vài tuổi mà khi nào tôi cũng có cảm tưởng như mình đứng rất cao để nhìn xuống những người tí hon này!
11/08/2016(Xem: 4233)
Nó không biết chính xác năm nay mình bao nhiêu tuổi, chỉ nghe sư thầy nói nó ở chùa đã 12 năm với cái tên Quảng Chân Tâm. Tất cả những đứa trẻ ở chùa ngoài tên đời do cha mẹ đặt, sư thầy đều cho pháp danh với chữ Quảng đứng đầu.
03/08/2016(Xem: 37108)
Nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện [1941 - 2011] qua đời năm 2011 tại Houston, nhưng chuyện kể, các bài viết về anh đã nhiều lầm lạc : Người viết : anh bỏ áo tu hành lấy cô vợ người Pháp, theo Thiên Chúa Giáo, kẻ khác viết : anh không hề có một mảnh bằng kể cả bằng tú tài mà dạy Triết Học Viện Đại học Sorbonne, mười lăm tuổi anh đọc và viết hàng chục ngôn ngữ, mười lăm tuổi anh dạy trung học, hai mươi tuổi anh là khoa trưởng khoa Khoa Học Nhân Văn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn, anh là triết gia không cần học một ai ? Dạy Triết học tại một Đại Học Pháp mà không cần một văn bằng nào ?
25/07/2016(Xem: 5304)
Người đàn bà đến bên cửa sổ ghé mắt nhìn ra ngoài trời. Qua lớp mưa mù dầy đặc trắng xoá ngoài kia bà chẳng nhìn thấy được gì ngoài những tia chớp xé toạt không gian kèm theo hàng loạt tiếng sấm như long lỡ đất trời. Thời tiết chiều nay quá xấu, xấu hơn người ta đã dự đoán và xấu hơn sự suy nghĩ của Quang, đứa con trai lớn của bà. Đã mấy tháng rồi nó mới có dịp bay về thăm bà vậy mà hôm nay trời lại mưa bão quá chừng! Trước khi lên máy bay nó còn gọi báo cho bà biết: - Bên đây thời tiết đẹp lắm má! Mong rằng khi con bay sang đến Cali thì trời quang mây tạnh, con sẽ chở má đi ăn và ở chơi với má đến tối mới về lại khách sạn.
06/07/2016(Xem: 8689)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình với tựa đề là “Nước Úc trong tâm tôi” để sang năm 2016 sẽ xuất bản và ấn tống. Tác phẩm nầy được viết trong mùa An Cư Kiết Hạ lần thứ 31 của năm Ất Mùi, nghĩa là từ năm 1984 đến nay (2015) cứ mỗi năm ba tháng như vậy, Thầy trò chúng tôi có trọn vẹn 3 tháng an cư tại chùa Viên Giác thật là an lạc. Chương trình mỗi ngày được bắt đầu từ 5 giờ 45 sáng. Đại Chúng vân tập nơi Tổ Đường để xá Tổ, sau đó lên Chánh Điện, hô canh và tọa thiền 15 phút. Sau khi xả thiền, Đại Chúng bắt đầu trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm, phần giữa của thời khóa có kinh hành niệm Phật ba vòng, tiếp đó lạy danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát và Thánh Chúng độ 35 lạy. Sau thời công phu khuya ai về phòng nấy để nghỉ ngơi hay hành trì tiếp, hoặc tập thể dục. Đúng 8 giờ sáng là giờ điểm tâm của Đại Chúng, ai nấy đều tỉnh thức trong lúc dùng sáng, không nói chuyện, mà câu chuyện hằng ngày chỉ được
13/06/2016(Xem: 4396)
Hoa Lan nhất định không đầu hàng ngẩng mặt than thở: “Đời là bể khổ, tình là giây oan“ như cụ Tố Như đâu. Hoa Lan phải tâm tâm niệm niệm cột vào tâm câu Nhất thiết duy tâm tạo, khổ hay vui đều do cái đầu và bàn tay năm ngón của ta điều binh khiển tướng. Hoa Lan sẽ kể về nỗi khổ, niềm đau của thế gian trong trường thiên Tỵ Nạn Tình Duyên, một vấn nạn trong cuộc sống lứa đôi, trong vòng ái ân, sinh tử. Nỗi khổ chúng sanh chỉ cần khoanh vùng trong hai chữ tỵ nạn cũng đủ làm ta khiếp vía. Nào tỵ nạn cộng sản, con rơi của tỵ nạn chính trị, cháu rớt của tỵ nạn kinh tế, những đề tài ấy nhắc đến đã đủ ù tai hoa mắt và cũng chẳng phải là sở trường của mình, Hoa Lan sẽ kể về đề tài tỵ nạn tình duyên, nơi đã đi, đã đến và đã về.
01/06/2016(Xem: 13260)
Bài này được viết như một ghi chú cho Thiền Tông, để như một cách tiếp cận đơn giản… và hy vọng, cũng là một ghi chú cho rất nhiều pháp khác của nhà Phật, kể cả Tịnh Độ. Bởi vì, Thiền Tông là pháp môn cốt tủy nhất, trực tiếp nhất, không qua bất kỳ phương tiện nào khác, và cũng có thể dùng làm chiếc cửa lớn cho tất cả các pháp khác.
31/05/2016(Xem: 20974)
Chuyện xảy ra ở Việt Nam, nhưng lại bắt đầu từ bên Mỹ. Số là, vào khoảng thời gian năm 1956, có một kỹ sư Hoa Kỳ tên là Frank M.Balk. Chàng kỹ sư này suốt đời chẳng biết gì về cái xứ bé nhỏ xa xôi tận vùng Đông Nam Á tên gọi là Việt Nam cả.
27/05/2016(Xem: 6579)
Bao nhiêu năm ao ước cho đến hôm nay tôi mới có duyên lành được hành hương về Tây Trúc - Tây Trúc hay Thiên Trúc là tên gọi trước đây của xứ Ấn Độ. Trong phái đoàn tôi đi có nhóm Sợi Nắng và các Phật tử đến từ Canada cũng như Hoa Kỳ. Về chư Tăng thì có thầy Tánh Tuệ - nhà thơ Như Nhiên. Thầy là người từng sống và học tập ở Ấn Độ suốt bảy năm nên thầy nắm rất rõ về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán... của người Ấn Độ. Cũng chính vì thâm niên như vậy nên nước da thầy rám nắng và người ta thường gọi thầy với cái tên rất gần gũi là "thầy cà-ri". Ngoài ra, phái đoàn còn có thêm sư cô An Phụng và sư cô Huệ Lạc
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]