Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

15. Ngát hương mùa khai hạ

05/09/201103:08(Xem: 3729)
15. Ngát hương mùa khai hạ

HÀNH TRÌNH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG
Huệ Trân 2008

Ngát hương mùa khai hạ

California mới đầu tháng sáu mà nắng hè đã vội vã vàng rực, như chẳng thể đợi chờ, khi những cơn mưa nhẹ còn sót lại từ mùa xuân muộn, cứ nấn ná, nuối tiếc chưa đi.

Chúng tôi, tăng ni và Phật tử chùa Phật Tổ lái xe lên, xuống từ Long Beach tới chùa Phật Đà, San Diego để thỉnh ý Thượng Tọa viện chủ về hình thức trang trí hoa quả trong khóa An Cư Kiết Hạ sẽ được tổ chức tại chùa Phật Đà từ ngày 16 tháng 6 tới 22 tháng 6 năm 2008.

Tháng sáu, tại Ấn Độ là mùa mưa, các loài côn trùng phải trồi lên mặt đất để tìm sự sống, trong khi các tăng sỹ vẫn không ngừng đi khắp đó đây hoằng pháp. Chính tình trạng này đã khiến Đức Thế Tôn khởi lòng từ bi lân mẫn muốn cứu sự sống của bao côn trùng bé nhỏ, khỏi bị dẫm đạp, đồng thời, ấn định thời gian nghỉ ngơi cho tăng đoàn, mà An Cư Kiết Hạ đã trở thành Luật Phật.

Sự nghỉ ngơi của các trưởng tử Như Lai, tất nhiên không phải là sự nghỉ ngơi của đời thường. Sự nghỉ ngơi này quý từng phút giây vì đây chính là thời gian để tăng đoàn thúc liễm thân tâm, kiểm điểm quá trình tu tập và trao đổi những phương thức giúp nhau vượt qua nghịch duyên, khi gặp phải.

Qua hơn hai mươi lăm thế kỷ, truyền thống đẹp đẽ này đã được các trưởng tử Như-Lai nghiêm chỉnh thực hành, dù dưới bất cứ hoàn cảnh nào.

Năm nay, chùa Phật Đà thuộc thành phố San Diego miền Nam California do Thượng Tọa Thích Nguyên Siêu trụ trì đã nhận lãnh vinh dự này, với sự bảo trợ của Như-Lai thiền tự, chùa Vạn Hạnh, tịnh xá Ngọc Minh và chùa Phổ Quang ở cùng thành phố.

Một ngày, trước khi khai hạ, chúng tôi đã hoàn tất trách nhiệm được giao phó, là hoa lan và trái cây được trang trọng trưng bầy khắp nơi. Thầy trụ trì rất hoan hỷ, ân cần bắt chúng tôi phải ăn cơm rồi mới cho ra về. Riêng tôi, không thể không hỏi Thầy một điều băn khoăn từ khi biết trường hạ năm nay sẽ ở chùa Phật Đà.

- Thưa Thầy, Chư Tôn Đức Tăng Ni về nhập hạ sẽ nghỉ ở đâu?

Câu hỏi có vẻ ngớ ngẩn vì nhập hạ ở đâu thì nghỉ ở đấy, sao phải hỏi! Nhưng tôi vẫn thường đến thăm chùa Phật Đà nên biết là ít phòng ốc lắm!

Thầy nhìn tôi, mỉm một nụ cười an nhiên tự tại:

- Con nhớ phẩm “Hóa Thành Dụ” trong kinh Pháp Hoa không?

Thầy chỉ nói thế.

Vâng, tôi nhớ. Đó là Phẩm Thứ Bẩy trong kinh Pháp Hoa.

Khi đoàn hành giả quá mệt mỏi trên đường cầu đạo, họ nản chí, sắp bỏ cuộc thì vị Đạo-sư hướng dẫn, có nhiều sức phương tiện đã an ủi rằng “Cố gắng đi, sắp tới một thành phố rộng rãi mát mẻ, có đầy đủ đồ ăn thức uống rồi.” Và, để biến lời an ủi thành sự thật, đi thêm một đoạn ngắn nữa thì Đạo-sư đã phương tiện mà biến hóa ra nơi chốn lý tưởng đó. Tuy thành phố đó chỉ hiện ra nhờ phương tiện, nhưng vì lòng tin sẽ được nghỉ ngơi mà đoàn lữ hành hăng hái đi tiếp.

Biết đâu, vị Đạo-sư năm xưa cũng đang trên đường tới chùa Phật Đà. Và ngày mai, phòng ốc sẽ đầy đủ để tiếp đón Chư Tôn Đức Tăng Ni khắp nơi về nhập hạ.

Sáng thứ hai 16 tháng 6 năm 2008, khi chúng tôi trở lại chùa Phật Đà thì mặt trời đã đứng bóng. Từ trước hai block đường, cư dân địa phương đã cảm nhận không khí của một ngày hội lớn. Từng đoàn xe nối nhau, quẩn quanh tìm chỗ đậu, từng nhóm Phật tử áo lam hớn hở chào nhau, cùng tiến về cổng chùa. Rồi những tình nguyện viên đi đón quý Chư Tôn Đức ở xa tới, tấp nập ngừng xe để quý ngài xuống, mang đến bao tiếng reo vui mừng rỡ của Phật tử khi được gặp lại những vị tôn túc khả kính.

Vốn không xa lạ với chùa Phật Đà, chúng tôi tự đi tìm xem chỗ nghỉ ở đâu.

Thì đây.

Sân sau đã được căng thành lều và giường sắt 2 tầng được sắp khít khao trong đó. Tôi nhẩm đếm cũng có đến hơn 50 giường.

A! thì ra “Hóa Thành Dụ” là đây rồi. Hôm qua mới là cái sân sau khiêm nhường, trơ trụi; hôm nay đã thành dẫy “nhà lầu” tươm tất.

Sau đó thì tôi được biết, những ngôi chùa và tự viện nhận lời tiếp tay chùa Phật Đà tổ chức trường hạ năm nay đều đã chuẩn bị chu đáo để tiếp đón một số Chư Tăng Ni về nghỉ ngơi, sau mỗi ngày sinh hoạt tại chùa Phật Đà, và sáng sớm hôm sau lại đưa quý ngài về lại trường hạ.

“Hóa Thành Dụ” cũng lại là đây! Thật là mầu nhiệm.

Danh sách Chư Tôn Đức Tăng Ni về nhập hạ, khởi đầu là 175 vị. Con số này tăng lên từng giờ, trong mấy ngày cuối, trước khi khai hạ. Và hôm nay, ngày đầu tiên của khóa hạ An Cư 2008 thì con số đã là 202 vi, gồm 16 Chư Hòa Thượng, 17 Chư Thượng Tọa và 169 Chư Đại Đức Tăng Ni.

Buổi chiều, sau khi dược thực thì buổi họp tăng Cung An Chức Sự đã được Chư Đại Tăng điều hợp ngay tại trai đường.

Chúng tôi ghi nhận kết quả sơ khởi:

Thiền chủ: H.T thượng Thắng hạ Hoan
Phó thiền chủ: H.T. Thích Trí Chơn, H.T. Thích Phước Thuận, HT Thích Minh Tuyên
Tuyên luật sư: HT Thích Trí Chơn
Hóa chủ: TT Thích Nguyên Siêu, HT Thích Minh Hồi
Chúng trưởng Tăng: TT Thích Hạnh Tuấn
Chúng trưởng Ni: NS Thích nữ Minh Huệ
Ban Nghi Lễ: HT Thích Phước Thuận (trưởng ban)
Ban Giáo thọ: HT Thích Thắng Hoan, HT Thích Trí Chơn, HT Thích Tín Nghĩa, HT Thích Nguyên An, HT Thích Nguyên Trí, HT Thích Minh Tuyên, TT Thích Minh Mẫn, TT Thích Hạnh Tuấn, TT Thích Minh Hạnh.
Tác bạch cúng dường: ĐĐ Thích Hạnh Đức, ĐĐ Thích Tín Mãn.

Đặc biệt, Thượng Tọa Thích Nhật Trí đã được Chư Đại Tăng đề cử làm Điều Hợp Viên, hầu như trong mọi chương trình của toàn khóa an cư.

Đồng thời, tất cả các Tiểu Ban cũng đều được Chư Tôn Đức Tăng Ni phối hợp trong tinh thần Lục Hòa nên đã đúc kết nhanh, gọn và vô cùng vui vẻ.

Ngày đầu tiên của khóa An Cư Kiết Hạ 2008 đã được toàn chúng tuân hành nghiêm chỉnh theo lịch trình tu học từ 4:30 sáng đến 10:00 tối với pháp thực sung mãn như tọa thiền, công phu, thảo luận Phật pháp, Lạy Hồng Danh, tụng Thủy Sám, thảo luận của Chư Tôn Đức Tăng Ni; và đặc biệt, theo lời thỉnh cầu của Phật tử, mỗi tối, lúc 8 giờ, Chư Tôn Đức sẽ thuyết pháp với những đề tài giúp người con Phật nhận ra bản tâm, chuyển hóa nghiệp chướng để tinh tấn, dũng mãnh đi trên Đường Trung Đạo.

Trước những giờ Quá Đường, Tụng Kinh, Tọa Thiền v…v… dân chúng địa phương lại sửng sốt, chứng kiến khung trời Phật Đà bỗng rực vàng vì những tà y Như-Lai tung bay trong gió. Phật tử thì chắp tay cung kính, tưởng đến phẩm “Tùng Địa Dũng Xuất” là phẩm đẹp nhất trong kinh Pháp Hoa khi các vị Bồ Tát phát nguyện trước Đức Thế Tôn là các vị sẽ tình nguyện ở lại Ta Bà để truyền thừa Kinh Pháp Hoa. Lời phát nguyện này chính là cơ duyên để Đức Thế Tôn cho chúng sanh biết là Ngài có mặt ở cõi Ta Bà chỉ là thị hiện; thực chất, Ngài bất sanh bất diệt nên hàng Bồ Tát mà Ngài đã giáo hóa từ vô lượng kiếp nhiều không thể tính đếm, nên không cần thêm nữa. Để chứng minh lời xác quyết này, Ngài đã dùng thần lực làm mặt đất rúng động, nứt ra; vô vàn vị Bồ Tát thân rực rỡ như vàng ròng từ đó trồi lên, trụ trên hư không, phát lời vi diệu tán thán Đức Thế Tôn.

Kinh Phật thường dạy “Giữ ý, buông lời”. Nếu biết nhìn bằng tuệ nhãn, có lẽ chúng ta cũng có thể thấy không ít Bồ Tát quanh ta vì Bồ Tát luôn vì khổ đau chúng sanh mà thị hiện.

Với sự hiện diện của hơn hai trăm Chư Tôn Đức Tăng Ni và đông đảo Phật tử khắp muôn phương vân tập về trường hạ, thì thời gian bẩy ngày sắp tới tuy ngắn ngủi nhưng chắc chắn sẽ làm sống dậy tinh thần An Cư Kiết Hạ mà Đức Thế Tôn đã tuyên thuyết, để hàng trưởng tử Như Lai thể hiện tinh thần Lục Hòa, trưởng dưỡng đạo tâm, trang nghiêm giới đức và thể hiện tình thương nuôi lớn muôn loài.

NAM MÔ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
NAM MÔ THƯỜNG TINH TẤN BỒ TÁT
NAM MÔ CÔNG ĐỨC LÂM BỒ TÁT

(Trường Hạ chùa Phật Đà – San Diego
16 tháng 6/2008 – 22 tháng 6/2008)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4637)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43760)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4366)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4313)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4215)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6338)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4609)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4018)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 24911)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 23981)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]