Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

16. Người Ðệ Tử Cuối Cùng

29/08/201105:03(Xem: 4062)
16. Người Ðệ Tử Cuối Cùng

LƯỢC TRUYỆNTIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
Hòathượng Thích Ðức Niệm
PhậtHọc Viện Quốc Tế, California, 1998

Người Ðệ Tử Cuối Cùng

Một hôm đang lúc ởthành Câu-Thi-Na, trong rừng Ta-La Song-Thọ, đức Phật gọi A-Nan bảo rằng:"Nầy A-Nan! Chỉ còn hai ngày nữa Như-Lai sẽ nhập Niết-bàn. Ta quán sátthấy ông Tu-Bạt-Ðà-La nay đã một trăm hai mươi tuổi, từ lâu tin theo đạoBà-la-môn, chuyên tu phạm-hạnh, căn tánh thuần thục, là người cuối cùng đángđược độ cho xuất gia thọ giới tu hành để chứng thành đạo quả. Vậy A-Nan, conhãy đi gấp đến chỗ ở của ông ấy, để khuyên ông nên mau mau đến gặp Như-Lai sẽtùy theo đó mà giải đáp để cho ông ta sớm được tỏ ngộ Chánh pháp".

A-Nan vâng lịnh đứcPhật, hoan hỷ vội vã lên đường đi đến ngôi làng cách rừng Ta-La Song-Thọ, nơiđức Phật sắp nhập Niết-bàn, khoảng mười chín dặm. Nơi đây, ông Tu-Bạt-Ðà-Lađang chuyên tâm trì trai giữ giới, tu tập phạm hạnh theo đạo Bà-la-môn, đãchứng đắc ngũ thông. Tu-Bạt-Ðà-La từ lâu nghe danh tiếng đức Phật và cũng đãđược bạn bè nhiều lần khuyên ông nên tìm đến ra mắt đức Phật để cầu đạo lýChánh pháp. Nhưng bởi do sở-tri-chướng và giới-cấm-thủ của ông quá sâu nặng,nên ông chỉ nể tình bạn đạo mà hẹn rày hẹn mai, rồi cuối cùng từ chối tất cảnhững lời khuyên tốt lành của bạn hữu.

Nhưng lạ thay! Lần nầykhi vừa thấy A-Nan đến, lòng Tu-Bạt-Ðà-La đặc biệt vui mừng. Khi nghe A-Nankhuyên ông nên mau mau lên đường đến yết kiến Phật, để Phật giảng giải nhữngchỗ nghi hoặc, vì ngày giờ Phật nhập Niết-bàn không còn bao lâu nữa. Vừa ngheA-Nan khuyên như vậy, ông Tu-Bạt-Ðà-La không một chút do dự, vui vẻ nhận lời,liền theo tôn giả A-Nan đến rừng Ta-la Song-thọ, vừa thấy tôn nhan uy nghiêmsáng chói của Phật, Tu-Bạt-Ðà-La tự nhiên cảm thấy nơi lòng như có một dòngsuối mát chảy khắp cả người, tâm hồn trở nên bình thản thanh thoát lạ thường.Liền đó, những giáo điều cằn cỗi của đạo Bà-la-môn rằng buộc tâm tư ông từ baonăm tháng thoát nhiên tiêu tan. Bây giờ ông cảm thấy tâm hồn sảng khoái nhẹnhàng thoát ly trần tục. Trước mặt ông là đức Phật sáng ngời hiển lộ ra ba mươihai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, tỏa ra phong độ từ bi hỷ xả tự tại giải thoátsiêu phàm, không như trí ông đã tưởng tượng trước đây.

Ðối với đức độ oainghi trang nhiêm thanh tịnh của Phật, khiến cho Tu-Bạt-Ðà-La ngây ngất khởilòng cung kính đảnh lễ sát đất. Mỗi lạy tâm trí của ông mỗi bừng sáng như bìnhminh rạng rỡ ánh xuân.

Sau khi được Phật âncần giải đáp những chỗ nghi hoặc, đồng thời khai thị cho ông nhận chân thậttướng các pháp, khiến cho ông thể nhập bản thánh chơn tâm. Bấy giờ Tu-Bạt-Ðà-Lathành kính đảnh lễ Phật, khẩn thiết xin cho được xuất gia thọ giới, khởi tâmthâm tín phát nguyện tinh chuyên như pháp tu hành. Ngay trong đêm ấy, ông chứngđược quả A-la-hán. Tu-Bạt-Ðà-La thành khẩn xin được đảnh lễ tạ ơn Phật đã khaithị cho ông và liền đó ông thâu thần tịch diệt trước Phật.

Thấy hiện tượng kỳdiệu đặc thù của ông Tu-Bạt-Ðà-La như thế, khiến cho lòng đại chúng lúc bấy giờthắc mắc nghi vấn. Tất cả đều hướng mắt nhìn về đức Phật với cõi lòng mong mỏiđược sự giải đáp đích thực. Ðức Phật biết rõ tâm trạng của đại chúng nghi ngờ.Ngài với phong độ từ dung, giọng nói thật hiền hòa trong sáng như chuông ngân,lần lượt giảng giải: "Nầy các đệ tử! Ta biết các con trong lòng đang mangnỗi thắc mắc nghi vấn về Tu-Bạt-Ðà-La. Tại sao Tu-Bạt-Ðà-La lại nghe lời khuyêncủa A-Nan một cách dễ dàng để đến đây ra mắt Như-Lai? Tại sao khi thấy A-Nan,Tu-Bạt-Ðà-La khấp khởi vui mừng và nhất là sau khi thọ tỳ-kheo-giới,Tu-Bạt-Ðà-La tu hành chỉ có một ngày đêm liền chứng quả A-la-hán và liền đó thâuthần tịch diệt trước khi Nhự-Lai thâu nhận Tu-Bạt-Ðà-La tuổi đã già đến mộttrăm hai mươi rồi, làm người đệ tử xuất gia cuối cùng? Những điều thắc mắc củacác con quả thật chính đáng! Vậy, các đệ tử hãy lắng nghe, ta sẽ vì các con màgiải hết mối nghi ngờ trước khi ta vào Niết-bàn".

Khi nghe đức Phật nêuđúng chỗ nghi vấn của mình, đại chúng ai nấy đều vô cùng vui mừng hớn hở, nhưkhát gặp nước, như đói gặp thức ăn, nơm nớp chờ pháp âm của Phật.

Khắp nhìn đại chúng,đức Phật nói: "Trong thời quá khứ xa xưa, có một kiếp nọ ta bị đọa làmthân con nai chúa. Một hôm bỗng nhiên trời nổi mưa to gió lớn, nước lụt ngập cảkhu rừng, nơi ta và đàn nai đã từng sống yên ổn bao năm, bây giờ lâm cảnh nguykhốn dập dồn, nai phải dời chỗ ẩn trú. Lúc bấy giờ nai chúa đã phải lần lượtđem sức cứu hết đàn nai qua sông. Cuối cùng chỉ còn một con nai nhỏ yếu nhấtđàn, nai chúa phải ra sức cưu mang qua bờ an toàn bên kia. Nai chúa phải cố lấyhết sức tàn bơi qua dòng nước lũ, mang nai con đến bờ, rồi cố ngoi đầu lên mấylượt như luyến tiếc trối trăng điều gì, rồi ngay khi đó nai chúa tắt thở, buôngtrôi chìm sâu theo dòng nước cuốn. Trong lúc hấp hối sắp vĩnh biệt trong dòngnước lũ cuốn phăng, nai chúa khởi tâm nguyện: "Trong trương lai, khi tuhành thành Phật sẽ độ hết đàn nai, đặc biệt là nai con sẽ được độ xuất gia tuhành thành đạo, trước khi Niết-bàn".

Ðức Phật nói tiếp: Nầycác đệ tử! Các con nên biết rằng, đàn nai kia chính là tiền thân các con ngàyhôm nay. Còn nai con được cứu sống cuối cùng, thì không ai đâu xa lạ, mà chínhlà tiền thân của ông Tu-Bạt-Ðà-La. Nai chúa thời đó, chính là tiền thân củaNhư-Lai ta ngày nay đây.

Ðức Phật còn nói tiếp:Nầy các đệ tử! Lại nữa, ta còn nhớ trong một kiếp quá khứ xa xưa ở thời quákhứ, khi ta còn là một tăng sĩ đang tu hành dưới cội cây cổ thụ, thì bỗng mộthôm vị thọ thần của cây cổ thụ nầy hiện ra mách bảo với ta rằng: "Bên kiadãy núi cách đây xa tám mươi dặm có đức Phật Ca-Diếp đang thuyết những bài phápcuối cùng trước khi Ngài vào Niết-bàn. Vậy tăng nhân hãy gấp rút đến đó để ramắt đức Phật ấy".

Vị tăng nhân đáp:"Ðường đi quá xa lại núi non ngăn cách hiểm trở, bần tăng nầy làm sao đicho kịp?"

Vị thọ thần đáp:"Nếu Ngài muốn đi, xin Ngài hãy an tọa định tâm niệm Phật thì trong giâylát sẽ được đến trước đức Phật kia.

Vị tăng nhân y theolời thọ thần khuyên, an nhiên tĩnh tọa niệm Phật. Thọ thần liền vận dùng thầnlực của mình chỉ trong giây lát đưa vị tăng nhân đến trước đức Phật Ca-Diếp,nghe pháp, thoát nhiên đại ngộ, được Phật Ca-Diếp thọ ký cho trong tương lai vàothời Hiền kiếp sẽ thành Phật hiệu là Thích-Ca Mâu-Ni. Và liền đó, vị tăng nhânkia thâu thần tịch diệt trước Phật Ca-Diếp.

Thọ thần thấy vậy phátnguyện rằng: "Chừng nào vị tăng nhân được Phật Ca-Diếp thọ ký kia thànhPhật, thì lúc ấy tôi nguyện làm đệ tử cuối cùng của vị Phật đó, và nhập diệttrước khi vị Phật đó vào Niết-bàn".

Phật tiếp: "Cáccon nên biết, vị thọ thần kia chính là tiền thân của Tu-Bạt-Ðà-La. Còn vị tăngnhân chính là tiền thân của Như-Lai ta đây vậy".

Phật lại tiếp :"Nầy các đệ tử! Cũng trong thời quá khứ xa xưa, có một kiếp nọTu-Bạt-Ðà-La đã từng làm cha của A-Nan. Và cả hai cha con người nầy đều có tâmtu hành cùng nhau phát nguyện rằng: Hễ ai gặp minh sư tu chứng đạo trước thìmách bảo cho nhau. Do nhân duyên nầy mà phụ tử tình thâm và lời nguyện đời đờicùng nhau nhắc nhở gắn bó tu hành, nên vẫn còn tiềm tàng trong tâm thức đếnnay. Vì vậy mà Tu-Bạt-Ðà-La đã từ chối tất cả bao lời khuyên của các bạn hữu,nhưng khi thấy A-Nan đến khuyên thì Tu-Bạt-Ðà-La liền vui vẻ nhận lời và cùng theoA-Nan về ra mắt Như-Lai, trước khi Như-Lai vào Niết-bàn".

Ðại chúng nghe đứcPhật cặn kẽ giải đáp xong, ai nấy đều cảm thấy như khát được uống, đói đước ăn,tâm trí sáng ngời, cõi lòng thanh thảnh an vui, đồng đảnh lễ Phật, rồi cùngngồi xung quanh nghe Phật di chúc những lời cuối cùng.

Hết

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2018(Xem: 4431)
40 Năm Ở Mỹ, sách của TT Thích Từ Lực
11/01/2018(Xem: 5082)
Vào những năm đầu của thập niên 2000, khi cây bút đang còn sung sức, tôi viết rất nhiều bài về danh lam thắng cảnh trên quê hương Nha Trang của mình để giới thiệu trên các báo và tạp chí khắp đất nước. Trong số đó, hiển nhiên là có bài viết về ngôi chùa đã lưu nhiều hình ảnh, dấu ấn kỷ niệm vào ký ức tuổi thơ của tôi với tên gọi thân quen mộc mạc: “Chùa Núi Sinh Trung”.
08/01/2018(Xem: 11177)
Hồi còn tại thế xưa kia Trên đường giáo hóa Phật đi qua làng Ngài đi cùng ông A Nan Khai tâm gieo ánh đạo vàng giúp dân. Đang đi ngài bỗng dừng chân Bước quanh lối khác có phần xa thêm Ông A Nan rất ngạc nhiên Vội lên tiếng hỏi. Phật liền giảng ra: "Này A Nan phía trước ta Có quân giặc cướp thật là hiểm nguy Sau ta ba kẻ đang đi Gặp quân giặc đó khó bề thoát qua!"
08/01/2018(Xem: 9354)
Ở bên Ấn Độ thuở xưa Nơi thành Xá Vệ, buổi trưa một ngày Gia đình kia thật duyên may Phật thương hóa độ, dừng ngay tại nhà, Tiếc thay chồng vợ tỏ ra Tham lam, độc ác, xấu xa, hung tàn. Hóa thành một vị đạo nhân Phật đi khất thực dừng chân trước thềm Ôm bình bát, đứng trang nghiêm, Anh chồng đi vắng, vợ liền nhảy ra Tay xua đuổi, miệng hét la
07/01/2018(Xem: 7746)
Sau mỗi lần có dịp viếng thăm các chứng tích như tượng đài, lăng mộ, viện bảo tàng, nhà lưu niệm, ..., của những nhân vật mà cuộc đời phần nào liên quan đến đời sống vật chất hay tinh thần, sự thịnh suy ,... của một nhóm người, một dân tộc, một vùng, một quốc gia,..., tôi ra về lòng những bâng khuâng với hai câu : Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên.
21/12/2017(Xem: 3768)
Anh sinh ra và lớn lên ở miền gió cát khô nóng Phan Rang. Là một Phật tử thuần thành, lại được phước báu khi có đến hai người con trai xuất gia, nên nhân duyên đưa đẩy đã trở thành đạo hữu của tôi qua nhiều lần hội ngộ lạ lùng ở các thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Kết tình đạo hữu với nhau đã gần mười năm rồi, mỗi lần gặp mặt, tôi và anh đều tay bắt mặt mừng, trò chuyện thân mật, nhưng người huyên thiên lúc đàm đạo là anh, còn tôi thì cứ chỉ biết gật gù, mỉm cười, họa hoằn lắm mới buông một đôi câu phụ họa. Anh quý mến tôi ở điểm đó.
15/12/2017(Xem: 6296)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 86987)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
29/11/2017(Xem: 6612)
Trong loạt bài Kể Chuyện Đường Xa lần này, người viết đặt thêm tên cho mục này Vòng Quanh Thế Giới, để có cùng tên với loạt phóng sự sẽ đưa lên tvtsonline.com.au với nhạc hiệu mở đầu của bài “Vòng quanh thế giới” người viết sáng tác gần bốn thập niên trước đây. Từ năm 1990, chúng tôi đã bắt đầu viết bút ký với chuyến đi Bangkok (Thái Lan) và loạt bài cuối cùng là chuyến du lịch Âu Châu vào năm 2015.
27/11/2017(Xem: 4833)
Nếu chấp nhận thuyết nhân duyên của Đạo Phật thì có thể dễ dàng, giải thích cho mọi tình huống và mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời nầy. Nhân duyên hay duyên sanh cũng tương tự với nhau. Đó là: „Cái nầy có cho nên cái kia có; cái nầy sanh cho nên cái kia sanh. Cái nầy diệt, cho nên cái kia cũng diệt theo“. Không ai trong chúng ta có thể biết trước được việc gì sẽ xảy đến cho mình về sau nầy cả; dầu cho chúng ta có cố gắng làm mọi việc tốt đẹp trong hiện tại; nhưng dư báo trong quá khứ, ai biết được thiện, ác còn lại bao nhiêu mà lường được. Chỉ khi nào nắp quan tài đậy lại trong kiếp nầy, thì lúc ấy ta mới biết được cái quả trong hiện tại là cái nhân như thế nào mà trong quá khứ của chúng ta đã gây ra và chính cái quả của ngày hôm nay sẽ là cái nhân cho ngày sau nữa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]