Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

15. Nhẫn Nhục Tiên Nhân

29/08/201105:03(Xem: 3924)
15. Nhẫn Nhục Tiên Nhân

LƯỢC TRUYỆNTIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
Hòathượng Thích Ðức Niệm
PhậtHọc Viện Quốc Tế, California, 1998

Nhẫn Nhục Tiên Nhân

Một hôm trên núiLinh-Thứu thuộc thành Vương-Xá trong pháp hội Pháp-Hoa, đức Phật đã tuyên bốthọ ký cho những đồ đệ có căn trí cao sâu vào thời tương lai sẽ chứng đạo quảVô-thượng Bồ-đề.

Trong số tăng đồ đượcthọ ký ấy gồm có: A-Nhã Kiều-Trần-Như đời sau sẽ thành Phật hiệu là Phổ-MinhNhư-Lai; Ma-Ha Ca-Diếp sẽ thành Phật hiệu là Quang-Minh Như-Lai; Xá-Lợi-Phất sẽthành Phật hiệu là Hoa-Quang Như-Lai; Mục-Kiền-Liên sẽ thành Phật hiệu là Ða-MaLa-Bạt Chiên-Ðàn-Hương Như-Lai; A-Nan sẽ thành Phật hiệu là Sơn-Hải-Huệ Tự-TạiThông-Vương Như-Lai; Ma-Ha Ba-Xà Ba-Ðề pháp danh là Ðại-Ái-Nhạo Tỳ-kheo ni đạohiệu là Ma-Ha Kiều-Ðàm-Di sẽ thành Phật hiệu là Nhất-Thiết Chúng-Sanh Hỷ-KiếnNhư-Lai; Da-Du Ðà-La sẽ thành Phật hiệu là Cụ-Túc Thiên-Vạn Như-Lai; Ðề-BàÐạt-Ða sẽ thành Phật hiệu là Thiên-Vương Như-Lai v.v... Những người đủ duyênđức đáng được thọ ký, đức Phật đều đã thọ ký cho cả. Nhưng trong số những ngườiđược Phật thọ ký thì A-Nhã Kiều-Trần-Như là người có những đặc thù khác biệtkhiến cho đại chúng chú ý muốn biết duyên do sâu xa.

Lúc bấy giờ tôn giảXá-Lợi-Phất quán biết lòng của đại chúng muốn thấu rõ về phước duyên đặc thùcủa A-Nhã Kiều-Trần-Như, nhưng không dám thưa hỏi Phật. Thấy vậy, tôn giảXá-Lợi-Phất đến trước Phật cung kính chấp tay đảnh lễ rồi quỳ thưa với Phậtrằng: "Bạch đức Thế-Tôn! Con nay quán thấy tâm của đại chúng đây hàng xuấtgia cũng như tại gia đều muốn biết về đời trước của tôn giả A-Nhã Kiều-Trần-Nhưcó nhân duyên đặc thù gì mà được đức Thế-Tôn sau khi thành đạo liền hóa độ ôngấy làm đệ tử trước nhất trong hàng trưởng-tử Như-Lai? Cúi mong xin đức Thế-Tônrủ lòng thương xót giảng nói để cho tứ chúng khởi lòng kinh ngưỡng thâmsâu!"

Ðức Phật nở nụ cườihiền hòa đáp: "Hay lắm! Hay lắm! Xá-Lợi-Phất! Như-Lai sẽ vì các thầy mànói rõ việc nầy".

Ðức Phật tiếp:"Nầy Xá-Lợi-Phất! Ta nhớ thuở đời quá khứ có một kiếp nọ, ta làm vị tiênnhân tu hạnh nhẫn nhục mà người thời bấy giờ gọi là Ðại-Nhẫn-Nhục tiên nhân. Vịtiên nhân nầy ẩn mình trong rừng núi thâm sâu, gác bỏ thế sự, đói ăn hoa trái,khát uống nước suối nguồn, ngày đêm chuyên tâm tu niệm ở chốn sơn lâm thâm sâuu tịch đầy hoa thơm trái lạ, đã bao năm không có bóng người lai vảng. Bạn củỪại-Nhẫn-Nhục tiên nhân là trăng sao mây nước. Nhà cửa của Ðại-Nhẫn-Nhục tiênnhân là đất rừng trời núi bao la. Ngày ngày, tiên nhân hết tọa thiền trên tảngđá bên dòng suối, lại đến dưới gốc cây ven rừng quán niệm. Tiên nhân lúc kinhhành niệm Phật dọc theo dòng suối, khi ngồi thiền quán dưới tàng cây cổ thụ umtùm. Ðại-Nhẫn-Nhục tiên nhân vui thú với chim hót suốt tháng năm, thưởng ngoạnhoa rừng quanh suốt bốn mùa. Cuộc sống phẳng lặng như thế đã bao năm, tưởngchừng như bồng lai tiên cảnh, không bị ảnh hưởng trần gian thế sự nhiễu phiền.

Nào ngờ, vào một chiềutà, khu rừng êm ả tĩnh mịch như mọi ngày, chim muông hót trên cành cây kẽ lá,Ðại-Nhẫn-Nhục tiên nhân đang tĩnh tọa thiền quán trên tảng đá ven thác suối,thì bỗng có tiếng người nói rộn rã xen lẫn tiếng vó ngựa chập chập ngổn ngangnhư tiếng sắt cành lẫn lộn mỗi lúc mỗi gần. Tiên nhân lấy làm lạ, liền nhậpthiền quán sát thì biết vua Ca-Lỵ là vị đại quốc vương đang trị vì đất nướcđương thời. dẫn đoàn tùy tùng đi săn bắn với cõi lòng thất vọng đầy tức giận.Tiên nhân cảm thấy có triệu chứng chẳng lành sẽ xảy đến cho mình, liền tiếp tụcnhập định thiền quán.

Chẳng mấy chốc, nhàvua cùng đoàn tùy tùng tay cung tay kiếm hùng hổ xông tới trước Ðại-Nhẫn-Nhụctiên nhân. Như được dịp trút nỗi bực tức thất vọng trong lòng, nhà vua dõng dạcto tiếng hỏi: "Ngươi là ai? Ở đây làm gì?"

- Tâu Bệ-hạ, bần đạolà kẻ tu hành. Ở đây tu tâm dưỡng tánh, tập hạnh nhẫn nhục.

Nhà vua đang cơn bựcbội gằn giọng quát to: "Tu là cái quái gì? Chính tại ngươi ở đây mà suốtmấy ngày nay, từ sáng đến giờ ta không săn được con thú nào. Ngươi có biết tộiđáng chết không?"

Trước thái độ giận dữcủa nhà vua, Nhẫn-Nhục tiên nhân vẫn thái độ bình thản đáp: "Tâu Bệ-hạ!Bần đạo là kẻ tu hành ở chốn rừng núi thâm sâu, thoát ngoài thế sự, đâu dám làmgì xúc phạm đến long thể Bệ-hạ?"

Nhà vua: "Hừ!Không xúc phạm hả? Chính do ngươi ở đây mà làm cho thú rừng sợ hãi xa lánh hếtcả!"

Tiên nhân thưa:"Muôn tâu Bệ-hạ! xin Bệ-hạ mở lượng hải hà rộng xét. Bảo vệ mạng sống thìmuôn thú mới không sợ. Bằng chứng là ngày ngày thú rừng đến làm bạn với bầnđạo. Bần đạo sống nhờ hoa trái của thú rừng đem đến cho".

Vừa nghe tiên nhân nóithế, cơn tức giận bỗng nhiên trở nên sôi sục, nhà vua hét to: "Láo! Vừarồi ngươi nói tu nhẫn nhục hả? Hừ! Xem thử ngươi có thật nhẫn nhục không?"

Vừa dứt lời, nhà vuarút gươm ra khỏi vỏ, không một chút do dự liền chặt tay tiên nhân. Mỗi nhátgươm sáng lòe phập xuống tức khắc cánh tay của tiên nhân rơi rụng, máu phun lailáng. Nhà vua như trút nỗi hằn học giận tức lên mình Ðại-Nhẫn-Nhục tiên nhân.Tuy tay bị chặt đứt, nhưng gương mặt của tiên nhân vẫn bình thản trong thái độan nhiên tự tại không chút nao núng giận hờn. Chẳng những thế, tiên nhân còntrải tâm từ bi thương xót nhà vua đầy sân si.

Liền ngay khi cánh tayđứt rời thân thể rơi xuống đất, Ðại-Nhẫn-Nhục tiên nhân phát lời thệ nguyện:"Nguyện đời đời dưới mọi hình thức, trong mọi hoàn cảnh, ta tìm cách giúpđỡ cho nhà vua si mê nầy sớm có ngày hồi tâm hướng thiện; nguyện khi tu hànhthành đạo chứng quả giác ngộ, trước hết ta sẽ hóa độ cho vị vua sân si nầy sớmhiểu được đạo quả giải thoát".

Do lời nguyện chíthành khẩn thiết phát xuất từ lòng đại bi, nên đời đời Ðại-Nhẫn-Nhục tiên nhânvà vua Ca-Lỵ thường gặp nhau và sách tấn giúp đỡ cho nhau trên đường thánh thiện.

Thuật xong câu chuyện,đức Phật hướng về tôn giả Xá-Lợi-Phất nói: "Nầy Xá-Lợi-Phất! và chính ngaytrong đời nầy, trong những ngày còn tầm sư học đạo, khi ta đến cầu học với tiênnhân Uất-Ðầu Lam-Phất, thì A-Nhã Kiều-Trần-Như trước đó đã sớm thọ giáo với vịtiên nhân nầy rồi. Khi ta rời bỏ Uất-Ðầu Lam-Phất, thì A-Nhã Kiều-Trần-Như cũngtheo ta về ở rừng tu khổ hạnh. Rồi ta bỏ lối tu khổ hạnh để đến tĩnh tọa dướicây Bồ-đề bên dòng sông Ni-Liên-Thiền, thực hành trung đạo. Sau bốn mươi chínngày, liên tục tĩnh tọa bất động, vào một hôm, khi sao mai vừa rạng mọc, thì tachứng được đạo quả Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác. Khi ta trở lại rừng tu khổhạnh Lộc-Uyển độ cho năm bạn đồng tu khổ hạnh, thì chính A-Nhã Kiều-Trần-Như làngười đầu tiên rất lấy làm hoan hỷ tiếp thọ giáo pháp Tứ-diệu-đế và chứng đượcquả A-la-hán".

Nói đến đây, đức Phậtnhìn thẳng vào tôn giả Xá-Lợi-Phất mà bảo rằng: "Nầy Xá-Lợi-Phất! Thầy nênbiết, vua Ca-Lỵ thời quá khứ kia, chính là tiền thân của A-Nhã Kiều-Trần-Như.Còn vị Ðại-Nhẫn-Nhục tiên nhân kia, chính là tiền thân của Như-Lai ta đây vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 4021)
Có một dòng sông rất đẹp chảy qua núi đồi và đồng cỏ xanh tươị Dòng sông ca hát nhảy nhót tung tăng từ trên núi xuống đồng bằng. Xuống đồng bằng, dòng sông chảy chậm lại, mặt nước trong xanh êm mát.
10/04/2013(Xem: 4820)
Thuở ấy khi vừa bước vào Thiên Đường, Bích Thảo đến đứng trước một cây kỳ lạ, cây vừa là đàn ông vừa là đàn bà. Bích Thảo cúi chào cây một cách kính cẩn và hỏi : "Chào cây, cây có phải là cây của sự sống không?" Nhưng khi có con rắn muốn thay cây trả lời cho chàng thì Bích Thảo quay lưng bỏ đi.
10/04/2013(Xem: 4374)
Làng Mã Châu của tôi là một ngôi làng nổi tiếng về nghề nuôi tằm, ươm tơ và dệt lụa. Những ngày còn nhỏ, tôi thích đứng xem người lớn nuôi tằm. Nhìn những con tằm nhỏ li ti, bám vào những chiếc lá dâu xanh, nhả những sợi tơ trắng mong manh, cho đến khi trở thành những con nhộng cuộn tròn trong cái kén. Qua đó, tôi cảm nhận sự kỳ diệu của một quá trình sinh diệt không cùng của vạn vật.
10/04/2013(Xem: 15702)
Quý vị đang cầm trên tay quyển "Đại Đường Tây Vức Ký" được chuyển dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt là do kết quả của sự miệt mài dịch thuật của chúng tôi từ ngày 24 tháng 10 năm 2003 đến ngày 10 tháng 12 năm 2003 tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân mùa nhập thất lần đầu tại đây.
10/04/2013(Xem: 2962)
Đúng vào hôm tôi vừa ở Phật Học Đường Báo Quốc về thì Vĩnh đến thăm. Anh đến mang cho tôi một chồng sách Phật viết bằng tiếng Pháp mà anh mới gởi mua ở tận xứ xa. Anh cũng không quên mang tặng chú Tâm Mãn một cuốn tự điển Pháp Việt mới xuất bản, bởi vì anh biết chú Mãn đang cần cuốn này để học thêm Pháp văn.
10/04/2013(Xem: 14554)
Tập truyện Phật giáo này, gồm trên 70 câu truyện, rút từ các kinh, luật và luận, hoặc những chuyện mắt thấy tai nghe, có liên quan đến Phật giáo, cũng đem vào. Tập truyện này viết theo ký ức, nên không nhớ nhân danh, địa danh và thời gian. Mong chự vị độc giả thông cảm cho.
10/04/2013(Xem: 16461)
Tác phẩm “ Life and Teaching of the Masters of the Far East » (1935) ”, hồi ký của Dr. Blair T. Spalding (1857 – 1953) Một phần của hồi ký đã được Nguyên Phong chuyển ngữ với tựa đề “Hành Trình Về Phương Đông”
10/04/2013(Xem: 12992)
Ngôi chùa Sắc Tứ Hưng Phước Tự nằm trên một triền đồi thoai thoải, mặt chùa quay ra hướng đông nam hướng về phía biển đông. Lưng chùa tựa sát vào vách núi. Chung quanh là những điện đường ngang dọc, xây theo lối cổ tự ngày xưa. Đây là một chùa bề thế được bao đời chúa Nguyễn sắc phong cho các vị trụ trì tiền nhiệm tại đó. Nên trong lòng ai cũng cung kính nể vì. Lý do là chùa xây dựng rất đúng với thuật phong thuỷ.
10/04/2013(Xem: 4282)
Trong mùa xuân của thời thơ dại Anselm thường thơ thẩn chạy khắp khu vườn xanh lá cây. Cậu bé yêu đặc biệt một loài hoa trong các hoa của mẹ : Hoa Huệ Kiếm
10/04/2013(Xem: 12141)
Ngay từ khi tôi còn thơ ấu, Ba vẫn thường kể câu chuyện về Kim Các Tự cho tôi nghe. Tôi ra đời trên một mũi biển hiu quạnh nhô ra ra biển Nhật Bản ở phía đông bắc Maizuru. Tuy nhiên, nguyên quán của Ba không ở đây mà ở Shiraku, miền ngoại ô phía đông thành phố Maizuru. Ba được thúc đẩy gia nhập giáo hội và trở nên tu sĩ trụ trì một ngôi chùa tên một mỏm đất xa xôi. Ba lập gia đình ở nơi này và sinh ra một đứa con trai, ấy chính là tôi vậy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]