Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10. Chồn Cưới Công Chúa

29/08/201105:03(Xem: 4056)
10. Chồn Cưới Công Chúa

LƯỢC TRUYỆNTIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
Hòathượng Thích Ðức Niệm
PhậtHọc Viện Quốc Tế, California, 1998

Chồn Cưới Công Chúa

Một thuở nọ tại vườnTrúc-Lâm thuộc thành Vương-Xá, ta từng nghe đức Phật nói như vầy: "Thuở xaxưa vào một kiếp nọ, có vị đạo sĩ lánh mình ẩn tu trong hang động, ngày ngàysống với núi rừng cỏ cây, vui với chim hót suối reo, đêm đêm chuyên tâm thiềntọa tụng kinh âm thanh lảnh lót thiền vị làm sao! Trong lúc ấy, có một con chồnđêm đêm cứ đúng giờ tụng kinh của đạo sĩ là nó đến nằm trước cửa để nghe. Chodù gặp phải những đêm giông tố sấm sét gió mưa, chồn cũng vẫn không vắng thiếubữa nào. Lâu ngày, con chồn kia như thấm được lời kinh tiếng kệ, hiểu được nghĩlý vi diệu một vài đoạn kinh. Thế rồi một hôm chồn nẩy sinh ra ý nghĩ kỳ lạ:"Nay ta đã hiểu được nghĩa lý kinh điển thánh hiền. Thánh hiền là bậc tônquý của loài người. Còn ta nay hiểu được giáo lý của thánh hiền, thì ta chắcphải được làm vua trong loài thú. Mà vua thì phải có quần thần". Nghĩ nhưthế rồi, chồn kia đứng dậy lập mưu chiêu binh mãi mã.

Trên đường chiêu mộbinh sĩ, đầu tiên chồn gặp một con cáo đang mắc bệnh liền phô trương hùng hổ raoai nhảy lại toan muốn giết cáo. Cáo kia đang lúc bệnh mỏi mệt thấy vậy thấtkinh mới hỏi chồn: "Tôi với anh không có oán thù, sao anh lại muốn giếttôi".

Chồn gầm gừ hung hăngđáp: "Ngươi có biết ta đây là chúa tể của muôn loài hay không? Tại saongươi thấy ta mà không biết hạ mình cung kính lễ chào? Như thế là ngươi đắc tộikhi quân. Ta không giết thì để ngươi sống làm gì nữa chứ? Nếu ngươi chịu phụctùng theo ta, thì ta tha cho mạng sống, sẽ hưởng được sung sướng sau nầy".

Vì cơn bệnh hoành hànhđau nhức không còn sức lực để tranh hùng, nên cáo phải hạ mình nói: "Thưangài! Xin ngài tha tội. Tôi xin tuân lệnh phục tùng theo hầu hạ ngài".

Thế rồi hai con chồncáo cùng kéo nhau đi. Ði được một quãng đường thì gặp một con chó sói lạc đànđói khát đang đi kiếm ăn. Chồn và cáo liền bao vây tấn công muốn giết chó sói.Bất ngờ trước hành động hung tợn của đối phương, chó sói lấy làm kinh hoàngngạc nhiên hỏi: "Tôi với hai anh có oán thù gì đâu? Tại sao hai anh lạimuốn hãm hại tôi? "

Chồn hùng hổ nói:"Nhà ngươi gặp vua tôi của ta đi kinh lý mà không biết giữ lễ vái chào,lại còn tỏ ra lơ là mục hạ vô nhơn. Ta không triệt hạ ngươi thì để làm chi nữachứ? Nếu ngươi chịu theo ta thì được sống. Bằng không thì tự chuốc lấy cái chếtvào thân ngay bây giờ. Một trong hai con đường, theo ta thì sống, chống lại thìchết, ngươi phải chọn gấp".

Nghe thế, sói thấymình thân cô thế yếu, đành nuốt hận hạ giọng nói: "Thưa ngài! Xin ngài bớtgiận tha mạng cho. Tôi nguyện tuân theo lời ngài, phục tùng hầu hạ".

Ðược sói xong, chồnlại tiếp tục đi chiêu mộ binh mã, khéo lợi dụng khí thế quần bầy để uy hiếp thếcô, khéo mưu mô dùng voi khắc phục cọp, lợi dụng loài thú nầy khắc phục loàithú khác. Nên chẳng bao lâu cọp, beo, voi, sư tử đều bị mắc mưu phục tùng chồn. Từ đấy, chồn tự xưng làm chúa tể muôn loài.

Từ khi các loài ác thúnúi rừng phục tùng dưới sự chỉ huy của chồn, thì chồn tự cho mình là có uy thếhùng mạnh nhất trong muôn loài. Nên chồn lại nghĩ rằng: "Ta bây giờ nghiễmnhiên là một vị vua của muôn loài. Thế là ta phải có hoàng hậu. Mà hoàng hậuthuộc loài thú thì hóa ra tầm thường thấp hèn lắm sao?! Không được, ta phảikiếm trong loài người một công chúa trẻ đẹp để làm hoàng hậu, như thế mới tỏ rađược cái đặc biệt hơn muôn loài thú vật". Nghĩ vậy rồi, chồn cưỡi trênlưng một thớt voi to mạnh dẫn theo sau đoàn cáo, sư tử, voi vào thànhBa-La-Nại. Dân chúng trong thành thấy đoàn ác thú hung hăng đi đứng lăng xăngtrên các đường sá phố phường, nên ai nấy đều kiếp sợ. Chẳng mấy chốc, tin nầyđược trình báo đến nhà vua tới tấp. Vua lập tức phái sứ giả ra nói: "Chúngngươi là loài thú ở chốn núi rừng, sao lại dám cả gan ngang tàng đi trong phốxá làm cho dân chúng lo sợ bất an như thế nầy?"

Ngồi chễm chệ trênlưng voi, chồn hất mặt xấc xược đáp: "Ta là vua của tất cả muôn loài. Tanay đến đây là muốn cưới công chúa của thành Ba-La-Nại nầy để làm hoàng hậu.Các ngươi có thuận theo lời ta thì tốt. Ta để cho dân chúng được an ổn. Bằngkhông thuận gả công chúa cho ta. Thì trước hết các ngươi hãy nhìn vào binhtướng hùng dũng của ta đây, chỉ trong giây lát thành trì nầy sẽ sụp đổ tantành, dân chúng trong thành sẽ bị nghiền nát không còn một mạng. Vậy ngươi hãylập tức trở về tâu lại cho vua của các ngươi biết quyết định của ta".

Sau khi được sứ giảtrình tấu, nhà vua rất là lo âu, liền hội quần thần văn võ bá quan trình bày rõsự việc để tìm phương kịp thời đói phó. Các quần thần nghe nói đến voi, sư-tử,cọp, beo kết thành đoàn kéo vào phố phường, ai nấy đều xanh mặt thất sắc đồngtâu lên vua rằng: "Xin Bệ-hạ nên thuận theo lời của chồn, mà đem công chúagả cho nó, để đổi lấy sự sanh tồn của trăm họ, sự an toàn của thành trì, và sựthanh bình của quốc gia xã tắc. Bằng không thì chúng ta không thể tránh đượchiểm nguy. Bởi vì trong nước ta hiện nay chỉ có voi, ngựa là bậc giỏi hơn hết.Nhưng chồn kia không những chỉ có voi, ngựa mà còn có cả cọp, beo, sư-tử nữa,thì chúng ta đâu có cách nào địch nổi. Hơn nữa, hễ ngựa, voi nghe tiếng sư-tửrống thì chúng hoảng hốt bò mọp kinh hãi khiếp sợ chạy trốn. Như vậy, khi ratrận với chồn, thì thua là điều chắc, chúng ta khó tránh được sự tổn thất tiêudiệt. Chi bằng Bệ-hạ không nên vì tiếc một người mà để cả nước trăm họ phảichịu hậu quả không thể lường được".

Trong lúc nhà vua cònphân vân suy nghĩ chưa biết phải quyết định ra sao, thì có một đại thần từtrước giờ yên lặng, nhưng vốn nổi tiếng là người can đảm, thông minh tài tríxưa nay, đứng lên tâu rằng: "Tâu Bệ-hạ! Hạ thần từng xem sách thánh hiềncổ kim, xưa nay chưa hề thấy công chúa mà đem gả cho loài thú như vậy. Vả lại,làm như thế thì còn gì quốc thể kỷ cương của triều đình, còn gì uy quyền caoquý của ngôi vua chí tôn chí thượng!? Tuy hạ thần là kẻ tài sơ trí mọn, nhưnghạ thần nầy quyết phải giết con chồn hỗn láo kia đi, để giải thoát hiểm nguycho quốc gia xã tắc, đem lại sự an lành cho bá tánh muôn dân trăm họ, và giảicứu muôn thú bị con chồn quỷ quyệt đốn mạt kia khống chế".

Trong lúc bâng khuânglo âu chưa biết phải giải quyết cách nào cho thỏa đáng, thì nghe được lời tâunhư thế, nhà vua hiển rõ trên sắc mặt nỗi vui mừng hy vọng, liền hướng về vịđại thần kia hỏi: "Vậy khanh có kế nào tuyệt diệu, hãy mau nói ra cho Trẫmnghe đi?"

Vị đại thần kia đáp:"Tâu Bệ-hạ! Bệ-hạ cứ phái sứ thần ra định ngày giáp chiến và giao hẹn vớicon chồn yêu quái kia rằng, nếu ngày lâm trận, chồn để sư-tử đi tiên phong, thìhai bên xáp trận đánh trước rồi sau đó mới cho sư-tử rống. Giao hẹn như thế,con chồn quỷ quyệt kia tưởng mình sợ sư-tử, nó sẽ cho sư tử đi tiên phong vàrống trước khi xáp trận. Khi sư tử rống lên thì các loài thú của chồn kia đềuhoảng hốt mất hồn rối loạn bỏ chạy. Ðồng thời trước đó Bệ-hạ nên ra lệnh trongthành dân chúng cũng như voi, ngựa của ta tất cả đều lấy bông gòn nhét lỗ tai thậtchặt. Khi nghe sư-tử của chồn rống lên thì ta cho lệnh xung phong tấn công. Nhưthế là ta sẽ tiêu diệt lũ chồn, cáo kia như trở bàn tay".

Nhà vua nghe vị đạithần tâu xong, không dấu được nỗi vui mừng, liền phán rằng: "Hay lắm! Haylắm! Lời tâu của khanh quả thật là diệu kế. Chí lý lắm!"

Không để mất cơ hộitốt, nhà vua liền sai sứ ra định ngày xáp trận với chồn, và căn dặn chồn phảigiữ đúng những điều giao ước là: "Sư-tử đi tiên phong xáp trận trước rồimới được rống sau".

Chồn tâm dạ vốn quỷquyệt, tuy nhận lời giao ước, nhưng không làm đúng những điều ước định. Nên khivoi, ngựa binh lính của nhà vua ra trước cửa thành, dàn trận tề chỉnh để chờlệnh lâm trận xáp chiến, thì chồn ra lệnh cho sư-tử rống to, với mưu đồ để chongựa, voi nhà vua kinh sợ bỏ chạy. Nhưng chồn đâu có biết rằng, nhà vua đã ralệnh nhét bông gòn kỹ cho voi ngựa trước đó rồi. Vừa nghe tiếng rống vang trờicủa sư-tử, chính chồn giật mình kinh hãi từ trên lưng voi rớt xuống đất bể timgiập mật chết ngay tại chỗ, không kịp nhắm mắt. Các loài thú theo sau con chồnkia cũng đều kinh hoàng run sợ chạy tứ tán vào rừng. Chỉ trong trong chốc lát,không mất người tốn của mà nhà vua thắng trận, giải thoát được hoạn nạn tàn sátcủa con chồn ác ôn một cách dễ dàng.

Kẻ đên đây, đức Phậtliền nói bài kệ rằng:

Gian tham chi lắm hỡichồn ơi!
Kiếp thú cưới ngườiđược sao ngươi?

Quỷ quyệt dẫn binh đòicông chúa,

Tan thay! Muôn thúđược thảnh thơi.

Ðức Phật nói kệ xong.Ngài hướng về đại chúng mà phán rằng: "Vị đại thần thông minh tài trí hiếnkế kia là tiền thân Xá-Lợi-Phất. Con chồn đòi cưới công chúa là tiền thân củỪề-Bà Ðạt-Ða. Vị vua xứ Ba-La-Nại thời bấy giờ chính là tiền thân của Như-Laiđây vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4791)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43899)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4474)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4407)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4326)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6449)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4738)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4145)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 25558)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24383)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]