Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

16. Phụ Trương - Phật Mẫu

28/08/201117:10(Xem: 2814)
16. Phụ Trương - Phật Mẫu

Diệu Nga
DỐC MƠ ĐỒI MỘNG
Tu Viện Trúc Lâm Canada Xuất Bản PL. 2547 DL. 2003

Phật Mẫu

Thông thường, Phật tử chúng ta hay kể cho nhau nghe về những truyền thuyết khi Thái Tử Tất Đạt Đa ra đời nơi vườn Lâm Tì Ni. Những biểu hiện kỳ lạ khi Thái tử ra đời rất đáng được truyền tụng và hiểu rành rẽ về cả sự lẫn lý, nên bằng cách này, quí vị đã và đang làm sống dậy ngày Phật Đản cách đây hơn hai mươi lăm thế kỷ. Duy còn một điều khác cũng không kém phần quan trọng trong cuộc đời của Thái Tử Tất Đạt Đa, ấy là mẹ của ngài, bà Ma Gia phu nhân, tưởng cũng nên được biết đến một cách rõ ràng.

Chúng ta chỉ biết Ma Gia phu nhân là con gái của vua A Loa Tích Ca và là vợ của vua Tịnh Phạn. Khi sắp đến ngày sinh đứa con đầu lòng, theo phong tục của xứ Ấn Độ thời bấy giờ, Ma Gia phu nhân trở về quê mẹ để sinh nở. Trên đường đi, ngang qua vườn Lâm Tì Ni, phu nhân thấy phong cảnh ở đây xinh đẹp lạ thường, hoa nở phô bày hương sắc dịu dàng tươi thắm, chim chóc líu lo ca hót đón mừng. Phu nhân truyền lịnh xa giá ngừng lại cho bà ngoạn cảnh và nghỉ ngơi. Chính nơi đây, trong khi bà vói tay hái cành hoa, thái tử ra đời. Thời gian ngắn sau đó, bà từ trần, có lẽ vì phu nhân qua đời quá sớm nên trong lược sử đức Phật Thích Ca cũng ít đề cập đến Ma Gia phu Nhân.

Nhưng trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới, khi Thiện Tài đồng tử đến cầu đạo Bồ Tát với Ma Gia phu nhân trên cung trời Đao Lợi, chính Ma Gia phu nhân đã nói với Thiện Tài rằng:
- Ta đã thành tựu môn “Giải Thoát Bồ Tát Đại Nguyện Trí Huyễn” do đây ta thường làm mẹ của Bồ Tát. Từ hông bên hữu, ta đã sanh Thái Tử Tất Đạt Đa, hiện bất tư nghì thần biến tự tại. Trong thế giới hải này, tất cả Tỳ Lô Giá Na Như Lai đều vào thân ta mà thị hiện đản sanh thần biến.
Thiện Tài bạch rằng:
- Đại Thánh được môn giải thoát này đã bao lâu?
Ma Gia phu nhân nói:
- Thiện nam tử! Cách đây bất khả tư nghì kiếp số, có kiếp tên là Tịnh Quang, thế giới tên là Tu Di Đức. Nơi đây có vị Chuyển Luân Vương tên là Đại Oai Đức ngự trị.

Thời ấy có Bồ Tát Ly Cấu Tràng đang ngồi kiết già nơi đạo tràng, sắp thành bậc Đẳng Chánh Giác thì bị ma vương cùng quyến thuộc đến bao vây định quấy nhiễu. Chuyển Luân Vương Đại Oai Đức dùng thần thông tự tại, biến hóa vô số binh lực kéo đến đạo tràng. Ma quân thấy thế sợ hãi và tan rã. Nhờ đó Bồ Tát Ly Cấu Tràng thành bậc Vô Thượng Chánh Giác.
Bấy giờ có vị thần nơi đạo tràng tên là Từ Đức, thấy sự việc xảy ra, lòng hoan hỉ vô lượng, đối trước Phật phát nguyện rằng: “Chuyển Luân Vương này chẳng luận sanh chỗ nào, nguyện tôi đều làm mẹ của vương, nhẫn đến đời vương thành Phật cũng vậy”.
Vị thần Từ Đức chính là tiền thân của ta, còn Chuyển Luân Vương Đại Oai Đức là tiền thân của Đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Do lời phát nguyện ấy, về sau ta đời đời làm mẹ của ngài. Vô Lượng chư Phật sắp thành Đẳng Chánh Giác cũng đều chọn ta làm mẹ cho tối hậu thân của các ngài.

Niệm niệm nguyện vi chư Phật Mẫu
Sinh sinh thị tác nữ hoàng thân”
(Bách thành yên thủy)

Tạm dịch:
Niệm niệm nguyện làm chư Phật Mẫu
Đời đời mong được nữ hoàng thân”

Nhứt Sanh Bổ Xứ là bậc Bồ Tát đã ở ngôi vị bất thoái chuyển, tâm đã tự tại giải thoát nhưng khi thị hiện ở cõi Ta Bà ở kiếp sau rốt (tối hậu thân) để hàng phục ma vương và chuyển bánh xe pháp hầu viên thành quả vị Phật, ngài cũng phải nương vào Đại Trí Huyễn (được biểu tượng bằng hình ảnh của Ma Gia phu nhân). Tại sao Bồ Tát phải nương vào Đại Trí Huyễn khi tế độ quần sanh trong cõi ngũ trược ác thế này?

Bước vào ngôi nhà lửa của chúng sanh, hành giả phải dùng Đại Trí Huyễn để tự trang nghiêm mới có thể thong dong đi cùng khắp. Tại sao thế? Bởi vì nếu chấp có cảnh thật, người thật thì cảnh dễ làm não lòng người: nào thành, nào bại, nào đắng, nào cay, nào thương, nào ghét… mỗi mỗi sự đều lưu lại trong tâm khảm hành giả một ấn tượng khó phai khiến cho tâm người bị dính chặt vào thế giới của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, làm sao có thể siêu quá thế gian mà cứu độ chúng sanh?
Bồ Tát khi giữ vững tâm niệm “Tu như huyễn pháp, hành như huyễn sự” thì lòng dạ rảnh rang vì không dính mắc vào đâu. Nếu tất cả chỉ là mộng ảo thì có ai phân biệt, thủ xả làm chi những điều xảy ra trong các giấc mộng?

Nhân gian là cảnh mộng, thế nhân là người mộng; Bồ Tát cũng vì cơn mê dài của chúng sinh mà phải dùng nhiều pháp môn phương tiện để thức tỉnh họ: vì mộng nên phải nói, vì mộng nên phải làm, một khi tất cả đều tỉnh dậy rồi thì nào có ai là Bồ Tát, đâu có kẻ làm phàm phu, cũng đâu có pháp môn tu, đâu có thuyền độ khổ!
Nhờ buông bỏ hết mọi thật chấp nên Bồ Tát được thong dọng tự tại trong mọi tình huống của cuộc đời, trong mọi cảnh giới mà mình thọ sinh.
Bởi thế, tất cả các Bồ Tát, nếu muốn thành tựu đại hạnh, đại nguyện đều phải nhờ nơi ĐẠI TRÍ HUYỄN. Đó là lý do vì sao những tối hậu thân của các Bồ Tát đều nhận Ma Gia phu nhân làm mẹ của mình (Màya cũng có nghĩa là ảo hóa).

Ngoài Ma Gia phu nhân là người mẹ của báo thân và ứng thân, chư Phật ba đời còn có người mẹ tinh thần tối cao, tối thắng, tối diệu, đó là Bát Nhã Ba La Mật. Kinh Đại Bát Nhã phẩm Phật Mẫu, phần thượng, có đoạn như sau:
“Vì pháp thậm thâm Bát Nhã Ba La Mật thường hay sanh ra chư Phật, cũng hay giúp cho chư Phật phát triển Nhất Thiết Trí, cũng hay chỉ bày các tướng trạng thế gian nên chư Phật thường dùng Phật nhản chú tâm vào pháp Bát Nhã Ba La Mật này”. Hoặc là:
“Này ông Tu Bồ Đề, sở dĩ chư Phật thành tựu đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hoặc đã, đang hay sắp đắc quả đều do nương vào nhơn duyên pháp thậm thâm Bát Nhã Ba La Mật này mà được thành tựu”.

Vì sao Bát Nhã Ba La Mật là người mẹ tối cao của ba đời mười phương chư Phật?
Chúng ta biết rằng tâm chúng sanh vốn rỗng không, vô tướng, vô nhiễm và rộng lớn vô biên nhưng vì chúng sanh bị vướng mắc, bị ràng buộc vào chỗ trụ trước nên phát ra tà kiến, biên kiến. Do có tà kiến, biên kiến nên ngã chấp, pháp chấp ngày càng kiên cố khiến cho tâm loạn động. Tâm loạn động luôn luôn biến đối theo hoàn cảnh và làm cho chúng sanh trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi. Những vị Bồ Tát từ đệ thất địa trở xuống sở dĩ chưa chứng được ngôi vị Bất Thối Chuyển cũng vì tâm loạn động (vi tế, nhỏ nhiệm chứ không thô thiển như phàm phu). Pháp thậm thâm Bát Nhã phá trừ tất cả những kiến chấp nhị biên (chấp thường, chấp đoạn, chấp hữu, chấp vô v.v…) lại phá bỏ hết 60 loại tà kiến của chúng sanh để hiển bày tướng NHƯ của các pháp, vốn bất tận, bất hoại. Chư Phật nhờ thân chứng tướng NHƯ này mà viên thành đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nên chư Phật cũng gọi là Như Lai.

Hành giả tu học Phật pháp mà tin hiểu và thấu rỏ được tướng NHƯ này chẳng những không bị thối chuyển trong đạo Bồ Đề mà còn có thể tiến thẳng lên ngôi vị Phật, vì những hành giả này đã và đang làm con của Bát Nhã Ba La Mật.

Chúng ta ai cũng thấy rằng ánh đạo vàng vẫn luân chuyển như vầng thái dương, không bao giờ ngừng chiếu sáng. Đồng thời chúng ta cũng tưởng nhớ công đức của những vị Phật Mẫu đã sinh thành và trưởng dưỡng Nhất Thiết Trí của chư Phật. Đối với Phật Mẫu Ma Gia, nguyện chúng con nương vào năng lực của pháp môn Như huyễn phá trừ nghiệp chấp. Đối trước Bát Nhã Ba La Mật, nguyện chúng con phá trừ vô minh, thấu tỏ “mày mặt thật” để có thể vào nhà Như Lai và gánh vác công việc của Như Lai, làm muôn vàn lợi ích cho chúng sanh với tâm hồn sáng trong, vô trước nhiễm…

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7798)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8675)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7475)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6368)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 7297)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5443)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 4091)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8983)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 23605)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4798)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]