Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 5

31/05/201114:43(Xem: 11816)
Chương 5

AM MÂY NGỦ
Truyện Ngoại Sử của Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản, Paris 1982

CHƯƠNG V

Tối hôm đó, trong khi Huyền Trân buông màn cho Thế tử Dayada ngủ. Thị Ngọc vào báo cho nàng biết đoàn sứ giả Chiêm Thành đã về. Cả đêm Huyền Trân thao thức không ngủ. Nàng mong ước sứ giả có đem về thơ của Thượng hoàng hay của vua Anh Tông cho nàng. Sáng hôm sau, quan đại thần Bảo Lộc Kê vào chầu vua Chế Chí. Chiều hôm đó, Thái hậu cho vời quan đại thần vào cung để hỏi han. Sau khi uống hết chén trà Thái hậu ban, vị đại thần tường thuật về chuyến đi. Ông nói là ông đã được vua Anh Tông tiếp kiến và lưu lại kinh đô Thăng Long mười hôm. Sau đó vua cho phái đoàn về nước và dặn rằng một sứ đoàn Đại Việt sẽ qua Chiêm trong tháng tới để làm lễ hỏa đàn Hoàng hậu. Huyền Trân thất vọng khi nghe vị đại thần nói là không có thư từ gì cho nàng.

Giữa tháng mười một, phái đoàn Đại Việt qua tới. Phái đoàn này gồm có mười hai người do quan thượng thư Tả bộc xa là Trần Khác Chung cầm đầu. Trong phái đoàn có bốn vị tăng sĩ Đại Việt. Bốn vị này, theo sứ thần Đại Việt, là những vị sẽ tổ chức trai đàn cầu nguyện cho vua Chế Mân theo nghi lễ Phật Giáo Đại Việt. Thái hậu Paramesvari, tức là Huyền Trân, sẽ đứng ra làm chủ đàn. Sau khi trai đàn hoàn tất, Thái hậu sẽ lên đàn hỏa. Cả hai trai đàn và hỏa đàn đều được dựng trên bờ biển theo thủ tục Chiêm Thành.

Vua Chế Chí tiếp sứ thần Đại Việt và phê y cho việc lập trai đàn bên cạnh hỏa đàn. Ngày khai đàn được chỉ định vào rằm tháng Chạp. Quan thượng thư Trần Khắc Chung cũng đã được Thái hậu vời vào cung uống trà. Trước mặt nhiều nữ quan và cung nhân Chiêm Thành, Thái hậu không tiện hỏi nhiều về sự tình đất nước. Quan thượng thư tâu rằng không có thư từ gì của Thượng hoàng cũng như của vua Anh Tông, Đêm ấy Huyền Trân đã khóc một mình trong tẩm điện. Nàng không ngờ Phụ hoàng và vua Anh Tông đã hờ hững với nàng như thế. Hoặc giả Thị Khanh đã làm thất lạc những lá thơ của nàng? Dù sao Huyền Trân cũng nhận thấy thái độ hơi khác thường của quan thượng thư Trần Khắc Chung. Quan thượng thư trong khi nói năng vẫn lễ phép nhưng phong cách của ông có vẻ rất xa lạ.

Ngày khai đàn đã tới. Vua Chế Chí ngự trên kiệu cùng với Hoàng hậu ra dự trai đàn. Huyền Trân mặc y phục đại lễ của Hoàng thái hậu Chiêm Thành. Ngồi trong kiệu của Huyền Trân có Thị Ngọc và một thị nữ Chiêm Thành khác, tên là Ratna. Thế tử Dayada được các cung nữ ẵm theo trong một chiếc kiệu che bằng lụa hồng, đi sau kiệu của Huyền Trân. Trai đàn đã được thiết lập trang nghiêm có đủ cờ phướn và nhạc cụ. Hỏa đàn đã được dựng sẵn toàn bằng gỗ trầm hương. Đám rước đông có tới gần một vạn người. Huyền Trân được rước xuống thuyền cùng với bốn vị tăng sĩ Đại Việt. Hai thị nữ cũng theo xuống với nàng. Thuyền của Huyền Trân sẽ ra khơi làm lễ đón linh hồn của vị vua quá cố về dự trai đàn. Quan thượng thư Trần Khắc Chung xin cho Thế Tử Dayada được xuống thuyền với mẹ, nhưng vua Chế Chí không thuận. Ngài truyền khiêng kiệu của Thế Tử tới bên kiệu của ngài.

Thuền của Huyền Trân vừa rời bến thì các vị tăng sĩ bắt đầu đốt nhang và tụng niệm. Giọng đọc kinh tiếng Việt làm Huyền Trân nhớ nhà, rơi nước mắt. Thị Ngọc cũng bưng mặt khóc. Thuyền càng lúc càng ra xa. Bây giờ là vào khoảng giờ Ngọ, mặt trời chói lọi trên đỉnh đầu. Thuyền của Huyền Trân đã ra tới ngoài khơi; bốn người thủy thủ Chiêm Thành kèm cho thuyền đứng yên trong khi các vị tăng sĩ làm lễ chiêu hồn. Bỗng nhiên, không biết từ đâu, bốn chiếc thuyền nhẹ lướt tới, trên chiếc nào cũng có bốn năm người thủy thủ. Huyền Trân nhận ra đây là những thủy thủ người Đại Việt. Trong phút chốc bốn chiếc thuyền nhẹ đã xáp lại vây quanh thuyền của Huyền Trân. Các thủy thủ Đại Việt đã nhảy lên: Bốn người Chiêm lập tức bị kềm chế. Huyền Trân, Thị Ngọc, người thị nữ Chàm và bốn vị tăng sĩ được chuyền rất mau xuống các thuyền nhẹ. Người ta trói tay bốn người thủy thủ Chàm và đặt họ nằm trong lòng thuyền. Lúc bấy giờ từ trong đất liền, một chiếc thuyền khác cũng vừa ra tới. Huyền Trân nhìn kỹ thì thấy trên thuyền có quan thượng thư Đại Việt và mấy vị tùy tùng. Phút chốc, quan thượng thư và các vị tùy tùng cũng được đưa lên thuyền nhẹ. Bốn chiếc thuyền lướt sóng như bay dưới những cánh tay lanh lẹ của các thủy thủ. Huyền Trân biết rằng đây là một cuộc cướp người do sứ đoàn Đại Việt tổ chức, thì ra vua Anh Tông đã sai quan thượng thư Trần Khắc Chung vào cứu nàng. Quan thượng thư đã hành động một cách vô cùng cẩn mật. Chính bốn vị tăng sĩ Đại Việt cũng không được biết một chút gì về mưu lược này. Huyền Trân ngồi trên một chiếc thuyền với hai người thị nữ, không ai nói với ai câu nào. Thị Ngọc hình như đã hiểu được cớ sự, nhưng Ratna người thị nữ Chàm vẫn còn dương cặp mắt kinh ngạc lên nhìn. Huyền Trân cầm ấy tay cô và bóp chặt cố ý cho cô biết rằng cô không nên sợ hãi. Các thủy thủ vẫn ra sức chèo; bốn chiếc thuyền cùng lướt sóng nhanh như những mũi tên bay về một hướng. Bỗng Huyền Trân nhận thấy một chiếc thuyền lớn phía trước mắt. Đây chắc là chiếc thuyền sẽ đưa nàng về Đại Việt. Các thủy thủ thấy dáng thuyền đều hò reo và càng ra sức chèo. Trong giây lát cả bốn chiếc thuyền nhẹ đều đã cặp vào hai bên hông chiếc thuyền lớn. Từ trong thuyền lớn, các thủy thủ đã liệng thang dây xuống. Cuộc chuyển người lên thuyền bắt đầu. Hai thủy thủ phía trên giúp Huyền Trân leo lên, trong khi hai thủy thủ phía dưới sẵn sàng đỡ nàng. Huyền Trân leo lên được trên thuyền thì hai thủy thủ đưa nàng ngay vào trong khoang. Quan thượng thư Trần Khắc Chung đã lên tới trước nàng. Đứng bên ông là một vị quan chức khác của triều đình Đại Việt. Ông này cúi chào nàng và tự giới thiệu là An Phủ Sứ Đặng Vân.

Ratna và Thị Ngọc đều đã lên tới; bốn vị tăng sĩ cũng vậy. Thuyền khá rộng, Huyền Trân và cả hai thị nữ được mời vào một khoang riêng. Nhìn ra, Huyền Trân thấy thuyền đã bắt đầu cưỡi sóng lướt đi. Thị Ngọc cho nàng biết các lá buồm trên thuyền đều đã được dựng lên; căng phồng dưới sức gió. Các thủy thủ được lệnh cho thuyền đi với tốc độ cao nhất để vượt thoát sự truy tầm của người Chiêm.

Nói chuyện với quan thượng thư chiều hôm ấy, Huyền Trân biết rằng vua Anh Tông đã phái ông và An Phủ Sứ Đặng Vân vào để tìm cách cứu nàng và đưa nàng cùng thế từ Dayada về Đại Việt. Hai người đã vặch sẵn kế hoạch trước khi lên đường. Họ khởi hành từ giữa tháng mười, đi đường bộ, và tới Thuận Châu thì dừng lại để hội ý với quan kinh lược Đại Việt lưu nhậm. Chính tại đây mà phái đoàn sắm được thuyền lớn, bốn chiếc thuyền nhẹ và tuyển được một đoàn thủy thủ thiện nghệ. Quan An Phủ Sứ chịu trách nhiệm đưa đoàn thuyền từ cửa Thuận An vào chực sẵn ngoài khơi cửa Thị lị bì nại, trá hình làm thuyền ngư dân, và phái một thủy thủ người Chiêm vào để liên lạc với quan thượng thư mà điều hợp thì giờ hành động. Kế hoạch đã không thành công hoàn toàn như họ mong ước, vì họ không đưa được Thế tử Chế Đa Gia cùng về.

Huyền Trân có cảm tưởng là mình không có quyền quyết định được gì trong kế hoạch này. Đây là một kế hoạch của triều đình Đại Việt, nàng bắt buộc phải tuân phục. Trong thâm tâm, nàng cảm thấy có một cái gì đổ vỡ. Kế hoạch cướp người này chắc chắn sẽ gây nên ấn tượng xấu về Đại Việt trong người dân Chàm. Niềm tin cậy của người Chiêm sẽ chết theo sự ra đi này. Phụ hoàng của nàng chắc chắn không được thông báo về kế hoạch này. Nàng biết nếu nàng có thể chấp nhận hỏa đàn để giữ nguyên vẹn tình giao hảo Chiêm Việt thì Phụ hoàng nàng cũng có thể chấp nhận sự đau xót kia để chu toàn ước nguyện hòa bình. Anh Thuyên của nàng chắc đã nghe lời những vị triều thần như Đoàn Nhữ Hài và Trần Khắc Chung. Những người này làm gì có được trái tim của Phụ hoàng. Họ khinh miệt dân Chàm, họ dòm ngó lãnh thổ Chàm. Họ không làm sao thấy được cái đẹp của tình huynh đệ.

Hồi tưởng lại giây phút lên thuyền để ra khơi làm lễ chiêu hồn. Huyền Trân bỗng giật mình. Nàng nghĩ rằng vua Chế Chí có thể đã biết được kế hoạch của quan thượng thư Trần Khắc Chung, nhưng vua vẫn làm lơ để cho nàng vượt thoát. Nội một việc vua truyền đưa Thế tử của Chế Đa Gia đến gần vua cũng đủ chứng tỏ được điều ấy. Công chúa Đại Việt có thể trả về cho Đại Việt, nhưng Thế tử Chiêm Thành phải ở lại Chiêm Thành. Vua không nói, nhưng vua đã làm theo điều đó. Quan thượng thư Trần Khắc Chung tưởng là đã đánh lừa được vua, kỳ thực ông đã được vua cho phép hành động theo kế hoạch. Huyền Trân nhìn ra trời biển phiá sau thuyền. Nàng biết rằng sẽ không có thuyền Chiêm Thành đuổi theo. Nàng nghĩ đến bốn người thủy thủ Chàm bị trói nằm trong lòng thuyền, và nàng mong ước rằng giờ này họ đã tự tháo gỡ được dây trói để cho thuyền trở vào bờ. Nàng nghĩ đến đám quần chúng đông đến gần một vạn người ngồi bên hỏa đàn và cảm thấy ruột nàng đau thắt lại. Nàng nghĩ đến Thế tử Dayada, đến trái tim của nàng, để lại trong lòng đất nước Chàm.

Thuyền đi êm đềm suốt đêm hôm ấy, và cả ngày hôm sau nữa. Nhưng giữa đêm sau, một trận bão dữ dội nổi lên làm thuyền suýt lật nhào. Các cột buồm đều bị gãy. Cả đêm, hai mươi thủy thủ trên thuyền chống cự mãnh liệt với cơn bão. Ratna bình tĩnh, nhưng Thị Ngọc có khi hoảng hốt ôm chặt lấy Huyền Trân. Cơn bão tiếp tục. Sáng hôm sau, các thủy thủy cho thuyền ghé sát một con vịnh để tránh gió. Cơn bão kéo dài đến bảy ngày bảy đêm. Thuyền bị thiệt hại nặng, không thể tiếp tục cuộc hành trình. Quan An Phủ Sứ phái hai thủy thủ dùng xuồng nhẹ vào bờ để để mua vật liệu sữa chữa thuyền, và đồng thời lấy thêm nước ngọt và mua thêm thức ăn. Các thủy thủ này đều nói được tiếng Chàm. May cho mọi người là thuyền lớn của họ có dáng dấp một ngư thuyền Chiêm Thành nên đã không tạo nên nghi ngờ gì trong óc những người người dân gần đó.

Thuyền phải đậu lại gần một tháng mới sữa chữa xong. Quan An Phủ Sứ ra lệnh nhổ neo. Thuyền đi sáu hôm nữa thì tới được cửa Thuận. Thuyền vào cửa được hai ngày thì mọi người lên bờ. Dù đây là lãnh thổ mới của Đại Việt, đa số dân cư vẫn còn là người Chàm cho nên Huyền Trân và các thị nữ đều phải cải dạng thường dân. Họ tìm tới tạm trú tại dinh quan kinh lược sứ. Quan thượng thư Trần Khắc Chung bàn tính kế hoạch gửi người về thành Phật Thệ để tìm cách bắt thái tử Chế Đa Gia đem về. Ông nói ông chưa thể lên đường về kinh sư được khi mà ông chưa hoàn tất nhiệm vụ vua Anh Tông giao phó. Mệnh lệnh ấy là đưa công chúa và thái tử Chế Đa Gia về Đại Việt. Nay công chúa đã qua được phía bên này biên giới, ông phải tìm cách đưa nốt Thế tử qua.Ông bàn với quan An Phủ Sứ và kinh lược sứ về kế hoạch gửi người về Chiêm, những người được gửi đi đều phải là người Chiêm, trung thành với Đại Việt, để cho kế hoạch khỏi bị nghi ngờ. Huyền Trân không biết ăn nói làm sao để quan thượng thư bỏ ý định trở về Vijaya bắt cóc thái tử. Nàng thương con, nàng ao ước có Dayada trong tay nàng để cưng chiều, để sung sướng, nhưng nàng thấy hành động bắt cóc thế tử bất nhẫn quá và có tính cách khiêu khích quá. Thế tử Chế Đa Gia thuộc về honàg gia Chiêm Thành, từ trước đến nay bao giờ Huyền Trân cũng nghĩ như thế. Nay nếu triều đình Đại Việt cho cướp thái tử về thì dân Chiêm sẽ thấy là dân Việt tráo trở, thủ đoạn, không tôn trọng lời cam kết. Huyền Trân không chịu đựng được ý tưởng đó, nhưng nàng biết nàng không là gì cả trong một xã hội mà người đàn bà không có quyền gì về mặt chính sự. Ai hiểu cho nàng ngoài Phụ vương của nàng. Cuối tháng hai năm đó, một chiếc thương thuyền khởi hành từ cửa Thuận, trên thuyền có tám người Chiêm đã được huấn luyện để về Vijaya bắt cóc con nàng. Lạ quá, tuy Huyền Trân phản đối việc trở về bắc cóc Thế tử Chế Đa Gia, trong lòng nàng lại phát sinh ra niềm hy vọng là cuộc bắt cóc sẽ thành công để nàng có thể đoạt lại được cái hạnh phúc làm mẹ. Huyền Trân cảm thấy giận mình vì cái niềm hy vọng đó. Nàng thấy nàng đang đồng lõa với tính cách thủ đoạn và tráo trở của hành động bắt cóc. Nàng chiến đấu với tự tâm, muốn loại bỏ ra khỏi lòng nàng cái niềm hy vọng này, nhưng lạ thay, càng muốn đàn áp nó, nàng càng thấy nó lớn lên. Nó mạnh hơn nàng. Nàng đau khổ vì chin1h nàng. Cuối cùng nàng tự cho rằng lý do của sự yếu đuối đó nằm ở sự kiện nàng chỉ là một người đàn bà. Mơ hồ trong tiềm thức, nàng biết rằng đó chỉ là một sự tự bào chữa. Nàng là một người đàn bà thật đấy nhưng không phải là một người đàn bà yếu đuối.

Thương thuyền khởi hành từ cuối tháng hai mà tói giữa tháng năm vẫn không có tin tức trở về. Nóng ruột quá, quan thượng thư và quan An Phủ Sứ gửi tiếp một đoàn lái buôn khác, lần này theo lộ trình đường bộ, nhưng đến đầu tháng bảy vẫn không có tin tức của đoàn nào nhắn về. Hiển nhiên là sứ mạng của cả hai đều đã thất bại, chưa chừng mọi người đã bị bắt bớ và tù đày. Rằm tháng bảy năm ấy, quan thượng thư và quan An Phủ Sứ quyết định bãi bỏ kế hoạch bắt cóc Thế tử Chế Đa Gia. Ba chiếc thuyền được lập tức trang bị cho Huyền Trân và hai vị đại thần trở về kinh sư. Đoàn tùy tùng gồm có hai mươi bốn người, trong đó có cả Ratna và Thị Ngọc. Bốn vị tăng sĩ đã lên đường về kinh sư từ trước ngày Phật Đản.

Kiệu đi ròng rã suốt hai mươi ngày mới về tới kinh đô Thăng Long. Huyền Trân đã nhìn lại quê hương với những con mắt mới. Nàng luôn luôn nhìn ra cảnh vật bên đường. Mỗi khi vượt đèo, qua sông, thấy nước non cẩm tú, nàng không thể không nghĩ đến đất nước và dân tộc Chiêm Thành. Đất nước kia và dân tộc kia cũng đã trở thành đất nước của nàng và dân tộc của nàng. Người dân Chàm cũng như người dân Việt, ở đâu cũng lam lũ, cần cù, đầy đủ sức chịu đựng và khao khát hòa bình. Nhìn những mái tranh thấp thoáng sau lũy tre, nhìn những đoàn thợ cấy lom khom trên ruộng lúa, nhìn những chú bé ngồi trên mình trâu, nàng ao ước được rỗ bỏ cái cốt cách vương giả của nàng để có thể trở về sống đời sống dân dã của xóm làng. Nàng muốn tái sinh trong một kiếp khác, thành một người dân quê. Có thể Phụ hoàng sẽ giúp cho nàng toại nguyện.

Ngày mồng mười tháng tám, kiệu nàng về đến kinh sư. Về tới kinh sư, vua Anh Tông và huệ Võ Đại Vương Quốc Chản, Huyền Trân được biết là Tuyên Từ thái hậu, dì nàng, đã xuất gia vào ngày mồng tám tháng tư năm ấy, Bà đã thọ Bồ Tát giới xuất gia tại chùa.

Báo Ân ở Siêu Loại và hiện bà đang tu ở am Bình Dương gần chùa Sùng Nghiêm ở tỉnh Hải Dương. Nàng cũng biết là kế hoạch dùng thuyền để cướp nàng đem về Đại Việt là do quyết định của vua Anh Tông và của triều thần. Thượng hoàng đã không được thông báo gì về việc này. Sau một ngày nghỉ ngơi để lấy lại sức khỏe. Huyền Trân quyết định đi thăm Thượng hoàng trên núi Yên Tử. Nàng định sau đó nàng mới về am Bình Dương, ở Hạ Lôi thăm thái hậu.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/11/2018(Xem: 3872)
Như một cơn lốc bất thường giữa thời tiết êm ả, người phụ nữ ấy sộc vào cái giang sơn tiêu điều của tôi vào một buổi tối oi bức. Chị ta mang theo cả một trời hương hoa sực nức, loại mùi thơm trưởng giả chưa từng xuất hiện trong căn nhà đơn sơ mà mẹ và chị em chúng tôi đang trú ẩn với tinh thần sống thiểu dục tri túc. Vì vậy, cảm giác đầu tiên của tôi là sự khó chịu. Y như mình đang thả hồn thưởng thức những cái giai điệu réo rắt ngọt ngào của đàn tranh, sáo trúc, mà lại có người khác bật máy móc hiện đại cho ầm vang lên những âm thanh cuồng nộ của loại nhạc tân thời rock, rap bên tai.
06/11/2018(Xem: 3559)
Những năm cuối của thế kỷ 20, “Bến Xe Ngựa” ngay trước nhà tôi đã di dời vào “Bến Xe Lam” gần chợ từ lâu, trả lại một con đường bị chiếm dụng sau nhiều năm tháng đầy kỷ niệm tuổi ấu thơ của tôi, và lũ con nít xóm Chùa.
05/11/2018(Xem: 3940)
Tôi và chị chưa hề một lần gây thù chuốc oán với nhau. Vậy mà không hiểu sao ngay từ ngày chạm mặt đầu tiên ở trụ sở Hội Văn Học Nghệ Thuật Tỉnh, bỗng dưng tôi thấy ghét chị thậm tệ. Và nhìn ánh mắt, vầng trán nhăn nhíu, điệu bộ của chị khi đứng gần tôi vào lúc cuộc họp chuẩn bị khai mạc, tôi cảm nhận, thấy biết được chắc chắn rằng chị cũng chẳng ưa gì tôi, có thể là ghét cay ghét đắng tôi, còn hơn cái mức mà tôi ghét chị.
04/11/2018(Xem: 4564)
Có bao giờ bạn nghĩ đời sống vợ chồng cũng là một nghề không? Chắc chắn mọi người đều nghĩ vợ chồng là chuyện tình cảm yêu đương, cớ sao lại gọi là một nghề?... Vào ngày 7 tháng 1 năm 2008, có một người Mỹ gốc Việt, 38 tuổi đã ném bốn đứa con nhỏ từ bốn tháng đến ba tuổi trên một chiếc cầu tại tiểu bang Alabama, Hoa Kỳ. Theo tin tức thì hai vợ chồng anh thường cãi nhau suốt ngày, hầu như không ngày nào mà hàng xóm không nghe vợ chồng anh to tiếng mắng chửi nhau. Ngoài việc xung đột, bất đồng ý kiến với vợ, anh còn uống rượu và xài thuốc kích thích, nên không kiềm chế nổi cơn sân. Vào ngày nói trên, sau khi cãi nhau với vợ, anh xách bốn đứa con lên xe và đem ra cầu liệng xuống sông, sau đó cảnh sát đã tìm ðược xác của bốn đứa trẻ này. Khi ra tòa anh ðã thú tội và nhận án tử hình.
03/11/2018(Xem: 7483)
Mười câu chuyện sức mạnh của chân thật và nguyện cầu chân lý Trích từ Tiểu Bộ Kinh Nikàya thay-tro Tâm Tịnh cẩn tập Chuyện tiền thân số 422 của Tiểu Bộ Kinh kể rằng trong thời tối sơ, con người sống thọ đến một A tăng kỳ. Tương truyền đó là thời mọi người trên thế gian đều nói thật, người ta không biết từ "nói dối" nghĩa là gì cả. Một hôm, Vua ban chiếu chỉ cho các thần dân tập trung trước sân chầu để nghe Vua nói dối. Mọi người đều ngơ ngác và hỏi, “Nói dối là gì? Nói dối là vật gì? Có màu gì? Màu xanh, hay màu đỏ”. Thời đó, con người có sắc thân rất tuyệt mỹ, toát ra mùi thơm của hoa chiên đàn, miệng có mùi thơm của hoa sen, là nhờ quả hành nghiệp chân thật, nói lời chân thật trong tiền kiếp.
02/11/2018(Xem: 3064)
Cả đám bảy, tám đứa tuổi choai choai đang quây quần nhậu nhẹt hò hét, làm huyên náo cả cái thôn vắng vẻ nằm ven biển. Những nhà ở gần đó không ai nghỉ ngơi, chợp mắt ngủ trưa được sau một buổi quần quật với công việc làm. Không ai dám hé môi động răng lên tiếng trước cái đám “quỷ sống” nổi tiếng là “quậy tới bến” này, dù là lên tiếng van lơn năn nỉ chứ không phải răn đe khuyên bảo…
01/11/2018(Xem: 3458)
Thạch đến chơi nhà tôi thường xuyên vào mỗi buổi chiều. Nói là chơi, thật thì lúc nào Thạch cũng đem bài vở đến cùng học và trao đổi ý kiến, chỉ khi xong xuôi bài vở mới ngồi tán gẫu với nhau. Mẹ tôi rất thương Thạch, bà yên tâm khi tôi kết bạn với một người hiếu học, hiền lành, lễ phép. Mẹ tôi cũng đã từng nghe mấy đứa bạn khác của tôi nói bóng nói gió có ý cặp đôi Thạch với tôi, nhưng bà bỏ ngoài tai, vì bà tin Thạch, cũng như tin con gái út của bà. Chỉ có một lần, không có Thạch, bà nhắc nhở tôi: “Con cứ theo thằng Thạch mà học như nó, đừng có ham chơi và giữ gìn đức hạnh thì có ngày con sẽ gặt hái những gì tốt đẹp nhất mà mình mong muốn!”
01/11/2018(Xem: 3346)
Nước Nga Bây Giờ Thích Như Điển Sau 25 năm, tôi đến lại nước Nga để thăm viếng lần nầy là lần thứ 6. Lần đầu vào năm 1994, nghĩa là mới chỉ sau 3 năm khi Liên bang các nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết bị sụp đổ; Liên bang Nga - một hình thức nhà nước mới được ra đời, nơi mà đảng Cộng sản không đóng vai trò độc tôn trong xã hội nữa. Những tưởng rằng, thành trì của phe xã hội chủ nghĩa ấy vẫn vững như bàn thạch, nhưng ngờ đâu, sau hơn 73 năm (1917-1991) tồn tại đã sụp đổ hoàn toàn bởi cuộc cách mạng dân chủ Nga do Yelsin, Tổng thống Nga chủ trương.
28/10/2018(Xem: 3700)
Diễm và Liễn lấy nhau được đúng 5 năm, chưa có con, biến cố 30-04-75 đến, chồng Diễm khăn gói vào tù, lúc đó nàng vừa 23 tuổi. Ở nhà chỉ còn nàng và cụ Định 70 tuổi, thân phụ Liễn. Trước đây, cả nhà ba người chỉ sinh sống bằng đồng lương hạn hẹp, ít ỏi của Liễn. Nhờ Diễm biết tằn tiện, quán xuyến, lại không phải hạng người ham vật chất, đua đòi nên cuộc sống gia đình nàng tạm đủ. Đủ theo cái nghĩa biết đủ thì nó đủ. Nhờ thế, mái ấm gia đình nàng êm đềm hạnh phúc dù vắng bóng tiếng trẻ thơ.
24/10/2018(Xem: 3400)
Ký túc xá Trường Cao Đẳng Sư Phạm không phải tồi. Thậm chí còn rất khang trang so với nhiều ký túc xác khác. Từ đây lội bộ ra bãi biển thơ mộng chỉ chừng trăm mét, tha hồ mà hóng gió trong lành. Ấy nhưng, cuộc sống ở ký túc xá quá phức tạp, ồn ào dường như không chịu ngơi nghỉ, lại thường xảy ra những vụ cầm nhầm lấy lộn không chịu trả… Tôi và Hương, Lý, Thanh họp bàn với nhau, quyết định chung tiền tìm nhà trọ ở ghép ở riêng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]