Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

33. Giai cấp Nhất Ức Lý

05/04/201113:34(Xem: 6251)
33. Giai cấp Nhất Ức Lý

TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO
Diệu Hạnh Giao Trinh sưu tầm và kể chuyện, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính và giới thiệu

PHẦN III: Những chuyện thuộc nhiều giai đoạn khác

33. Giai cấp Nhất Ức Lý

Ngày xưa, trong xã hội Ấn Độ, sự chênh lệch giữa người và người quả là rất lớn. Thành Vương Xá ở miền nam nước Ấn, dân chúng rất giàu có nhưng cũng không khỏi có sự phân biệt giai cấp.

Họ căn cứ vào tài sản ít hay nhiều mà phân thành 9 giai cấp, giữa các giai cấp, sự khác biệt vô cùng rõ rệt. Nhất Ức Lý là giai cấp của người dân thành thị giàu có nhất, dư giả nhất, gia sản phải lên tới cả ngàn vạn, hoặc ít nhất cũng là trăm vạn đồng tiền vàng; duy chỉ có những người giàu có như thế mới đủ tư cách để được xếp vào giai cấp Nhất Ức Lý ấy. Dĩ nhiên, giai cấp của họ là giai cấp đứng đầu nên không người nào là không hâm mộ, ao ước.

Lúc ấy có một người thuộc về giai cấp thấp nhất của 9 giai cấp nói trên, rất ngưỡng vọng sự vinh hoa phú quý của giai cấp Nhất Ức Lý. Ông hy vọng sẽ có ngày vượt lên được địa vị của những người mà ông hâm mộ đó, nhưng không có điều kiện thiết yếu là một gia sản đáng giá tối thiểu trăm vạn tiền vàng. Vì muốn có đủ điều kiện, ông không ngại công lao khó nhọc, ngày đêm tìm đủ mọi cách để buôn bán khắp mọi nơi. Nhưng sau mười năm lao lực, ông cũng chỉ gom góp được có 9 phần mười gia sản cần phải có để đạt được lý tưởng của mình. Nhưng than ôi, ông mắc phải một cơn bạo bệnh, bệnh tình nguy ngập, ông biết sẽ không còn sống lâu nữa nên gọi vợ đến căn dặn rằng:

– Tôi sẽ không khỏi bệnh được đâu, chỉ ân hận một điều là nguyện vọng ôm ấp suốt cả một đời chưa đạt được. Con chúng ta nay chỉ mới 8 tuổi, chưa thể thừa kế được sự nghiệp của tôi. Tôi mong bà nuôi nấng cho nó thành người, nói cho nó biết điều tôi mong mỏi, và bảo nó kinh doanh sự nghiệp của chúng ta cho khéo léo hầu vào được giai cấp Nhất Ức Lý, thì lúc ấy ở suối vàng tôi cũng ngậm cười mà an nghỉ.

Đợi việc mai táng xong xuôi, người mẹ gọi con đến trước mặt dạy rằng:

– Cha con mất đi có để lại di ngôn, hy vọng con làm ăn buôn bán cho khéo léo hầu có đủ điều kiện gia nhập vào giai cấp Nhất Ức Lý, để thực hiện nguyện ước của cha con lúc sinh thời.

Đứa con nhỏ tuổi mà đã có trí huệ của một vị cao nhân, đã biết rõ một cách chân chánh thế nào là họa, là phúc. Nó biết rằng tiền bạc châu báu của thế gian như một con rắn độc, từ xưa đến nay biết bao người vì tham cầu nó mà đã phạm vào đủ điều gian ác, không chùn bước trước bất cứ một thủ đoạn gian manh nào để làm tổn hại người, lợi ích cho mình, để rồi chiêu cảm trùng trùng điệp điệp quả báo đau khổ. Tất cả chỉ vì không hiểu rõ được lý nhân quả.

Người ta không hiểu rằng phúc báo của một người không phải từ trên trời rơi xuống, cũng như kẻ không trồng trọt mà muốn gặt hái được sao? Sự phú quý chân chính cũng có con đường của nó: chỉ đi theo con đường bố thí mới có thể đạt được.

Nhưng thằng bé biết rằng mẹ nó chưa hiểu những lý lẽ ấy nên chỉ lựa lời thưa rằng:

– Vâng, con sẽ luôn nhớ lời cha dặn. Nay con có một cách này rất hay, không cần đợi tương lai mà ngay hiện tại đã có thể vào được giai cấp Nhất Ức Lý. Chỉ cần trong nhà có bao nhiêu tiền của mẹ giao hết cho con là được.

Người mẹ nghe thế nửa tin nửa ngờ, nhưng bà thương con rất mực và cũng muốn nương tựa vào con, nên đem chìa khóa ngân khố tài bảo giao hết cho con.

Đứa bé đem toàn bộ gia sản, cả ngày ở ngoài đường thuê người khắc, nặn tượng Phật, xây dựng tháp miếu, cúng dường chư tăng, làm tất cả mọi sự để hoằng dương Phật pháp, rồi còn xuất ra rất nhiều tiền để cứu giúp người nghèo khổ. Chưa tới nửa năm, tài sản của người cha trọn đời dành dụm đã được cậu sử dụng hết!

Người mẹ tuy có phúc báo nhưng chưa từng thông hiểu được pháp Phật. Bà không biết con mình là Bồ Tát tái sinh, không giống phàm nhân, mà trái lại có trí huệ cao siêu, có thần thông thâm diệu, đi lại tự tại trong Ba cõi. Bà cũng không biết rằng thí xả tài sản là con đường ngắn nhất để được phúc đức, giàu sang phú quý. Vì thế, chỉ cần làm theo lời Phật dạy thì việc sinh vào giai cấp Nhất Ức Lý là một điều quá dễ dàng!

Vì bà không thể biết những điều ấy, lại trước mắt thấy tài sản cứ ngày theo ngày tiêu hao nhanh chóng nên trong lòng rất lo lắng. Không những không được làm dân của giai cấp Nhất Ức Lý, mà còn e là sẽ không biết lấy gì để sống nữa! Nhưng tình thương con khiến cho bà không nỡ trách mắng, cũng không nỡ ngăn cấm, vì đứa con luôn biết lựa lời giải thích mỗi khi thấy mẹ quá lo lắng.

Không ngờ phước chưa được hưởng mà họa đã giáng lên đầu, thằng con trai thông minh, kháu khỉnh của bà trong một đêm lâm bệnh nặng, y sĩ không đến kịp, đã lìa khỏi vòng tay của bà mà ra đi vĩnh viễn!

Tài sản không còn, thằng con duy nhất cũng đã chết, người mẹ đau khổ chỉ muốn kết liễu đời mình cho xong, hận sao không được theo con mà chết!

***

Dục vọng con người sao mà nhiều thế, thật không sao kể xiết.

Có một vị phú ông thuộc giai cấp Nhất Ức Lý, giàu có bậc nhất, tài sản lên tới tám trăm vạn tiền vàng, nhưng suốt ngày lại khổ não vì chưa có con trai nối dõi tông đường, gia sản kếch sù kia rồi ai sẽ là người thừa kế?

Ông suốt ngày ngồi kiệu, nghe đâu có chùa chiền miếu mạo nào ông cũng tìm đến cúng bái, cầu xin sinh được một đứa con trai phúc huệ song toàn. Quả nhiên ít lâu sau, bà vợ cả của ông sinh được một đứa con trai.

Đứa bé sinh ra rất kháu khỉnh, song có một điều nó không giống người thường, ai thấy cũng phải lạ. Mới sinh được ba hay bốn ngày, thằng bé đối với mẹ cứ như người lạ: lúc mẹ bồng thì nó rống lên khóc; mẹ cho bú, nó cũng khóc; đút vú vào miệng thì nó không khóc cũng quay đầu chỗ khác... Do đó, hễ nó cất tiếng khóc là cả nhà quýnh quáng lên, vì không bú sữa thì làm sao mà sống? Cả ngày cứ rống lên khóc mãi thì làm sao sống? Chỉ hai điểm ấy thôi đã đủ làm cho cả nhà ai nấy đều lo sợ bất an.

Còn phú ông lại càng khổ sở hơn nữa! Thằng con cầu tự này, khó khăn lắm mới có được, ông xem nó quan trọng hơn cả sinh mệnh của mình, lẽ nào phải ngồi nhìn thằng bé chết dần chết mòn vì la khóc và không chịu bú sữa? Ông bèn cho công bố khắp nơi rằng: ”Ai dỗ được con ông hết khóc và làm cho nó chịu bú sữa thì ông sẽ đem lễ vật đến xin người ấy về làm thân quyến của ông.”

Biết bao nhiêu người đàn bà đã đến xin thử, nhưng muốn vào nhà đệ nhất phú ông thật không phải dễ! Người nào đến bồng ẵm đứa bé nó cũng chỉ làm cho nó khóc to hơn, ôm nó còn không được, huống gì có thể cho nó bú!

Một vài ngày trôi qua, bao nhiêu người đàn bà đã thất vọng ra về, duy chỉ có một người không biết tu hành từ đời nào mà đời nay được phúc báo là đuợc giữ lại.

Đó chính là người đàn bà vừa mất con vừa mất tài sản nọ. Chính bà cũng không hiểu rõ tại sao! Bà nào có ý định đến xin thử việc này, chỉ vì thấy có đông người và quang cảnh trước mắt vui vui, khêu gợi tính hiếu kỳ của bà, lại đang lúc buồn nản nên liền đánh liều theo chân đoàn người kia vào thử một phen. Có ngờ đâu khi vừa thấy bà đứa bé như gặp lại người thân, liền im ngay tiếng khóc ngang ngược của mình, lại còn nhìn bà rồi nhoẻn miệng cười qua những giọt nước mắt còn chưa ráo!

Người làm công liền trao cho bà bình sữa. Khi bà đút vào cái miệng nhỏ xíu của đứa bé thì ô kìa, nó bèn bú lấy bú để một cách ngon lành. Thế là, khỏi phải nói, phú ông mừng vui không sao kể xiết, đích thân mời bà ở lại chăm sóc cho đứa bé. Và tất nhiên là giữ lời đã hứa, ông cũng nhận bà làm thân quyến của ông.

Tối đến, khi trong nhà ai nấy đều đã ngủ say, bà vẫn không tài nào nhắm mắt, cứ ôn đi ôn lại từng việc đã xảy ra trong ngày hôm đó. Bà thật tình khó có thể tin được là mình đã bước vào giai cấp Nhất Ức Lý.

– Ta đang nằm mơ chăng? Bà lẩm bẩm tự hỏi.

– Không nằm mơ đâu mẹ!

Có người đang trả lời bà, nhưng người đó là ai? Bà ngồi bật dậy trên giường, nhớn nhác nhìn quanh tìm kiếm.

– Mẹ ơi, là con đây mà!

Thì ra chính đứa bé đang nằm bên cạnh bà, con trai của lão phú ông đang nói chuyện với bà.

– Con ư?

Bà vô cùng kinh dị, một đứa bé sơ sinh làm sao đã biết nói, lại còn gọi bà bằng “mẹ” nữa!!!

– Đúng rồi, con là đứa con mà mẹ đã mất, nay tái sinh về đây! Mẹ chẳng từng nói với con rằng ước vọng của cha trước khi mất là muốn mẹ con mình vào được giai cấp Nhất Ức Lý đó sao? Bây giờ thì mẹ con mình đang ở trong một gia đình giàu có nhất của giai cấp Nhất Ức Lý đây này!

Bà ôm chầm lấy đứa con, giòng nước mắt ràn rụa lăn xuống đôi gò má.

Bây giờ thì bà hiểu rồi: Bố thí tài sản không tham tiếc chính là gieo nhân lành cho sự giàu sang phú quý của đời sau vậy.
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4672)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6591)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4824)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10071)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3598)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4801)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5033)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7497)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4207)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13429)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]