Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

3. Tài sản chân thật

05/04/201113:34(Xem: 6283)
3. Tài sản chân thật

TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO
Diệu Hạnh Giao Trinh sưu tầm và kể chuyện, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính và giới thiệu

PHẦN III: Những chuyện thuộc nhiều giai đoạn khác

3. Tài sản chân thật

Thuở xưa, có hai anh em cha mẹ mất sớm, để lại một gia sản to lớn. Không hiếu dưỡng được song thân, họ đều rất lấy làm buồn tiếc.

Thời gian vùn vụt trôi qua, hai anh em cùng lớn lên nhưng khác biệt nhau rất xa, từ chí hướng đến ý thích. Người anh thì mến đạo nghĩa, thường làm việc thiện như bố thí của cải, do đó gia sản ngày càng tổn giảm; còn người em thì say mê tích lũy tài sản, thường dùng đủ mọi mánh khóe làm ăn buôn bán nên gia sản ngày càng tăng thêm. Người em rất bất mãn lối sống của anh mình, nên một hôm, không chịu đựng được nữa, người em đến gặp anh và lên mặt dạy dỗ:

– Anh em chúng ta bất hạnh nên cha mẹ mất sớm. Cha mẹ để lại gia tài cho chúng ta, phận làm con phải nhớ nghĩ đến công ơn của cha mẹ, mau mau phải nỗ lực làm ăn buôn bán để giữ gìn và phát triển cái vốn gia sản sẵn có ấy, khiến hương hồn cha mẹ ở suối vàng cũng được an ủi, như thế mới đúng đạo làm con. Đằng này anh lại từ sáng đến tối cứ lo chạy theo mấy ông sa-môn xuất gia để nghe kinh Phật, không lẽ mấy ông ấy có thể cho anh áo quần tiền của hay sao? Gia đình anh càng ngày càng nghèo khó, gia sản cha mẹ để lại ngày càng hao hụt, không những có lỗi với hương hồn cha mẹ mà còn khiến cho lối xóm phải chê cười.

Người anh hiền từ nhã nhặn đáp lại:

– Những gì chú nói anh đã biết rõ hết, nhưng đó chỉ là những ý nghĩ thiển cận của thế tục. Chú nghĩ rằng mình phải giữ gìn và khuếch trương sản nghiệp của cha mẹ để lại mới là tận hiếu, nhưng anh thì hoàn toàn không nghĩ như chú. Làm như thế chẳng qua chỉ giúp chú có thêm điều kiện hưởng thụ, chứ vong hồn cha mẹ nào được lợi ích gì? Còn anh chỉ muốn lo giữ theo Năm giới một cách nghiêm chỉnh, chuyên cần thực hành Mười điều thiện, cúng dường Tam bảo, nương theo Chánh đạo mà hồi hướng mọi công đức để cứu vớt cha mẹ, nguyện cho hương hồn cha mẹ được xa lìa Ba nẻo khổ mà sinh về đường thiện, dần dần tiến đến chỗ được giải thoát khỏi luân hồi sinh tử. Đây mới thật là con đường báo hiếu chân chính. Đạo và đời vốn khác biệt nhau, cái mà đạo cho là sung sướng và quý giá thì người đời lại cho là vô nghĩa, không thể hiểu được. Những gì chú cho là khoái lạc hôm nay chính là gốc rễ của phiền não về sau. Anh không muốn chạy theo những khoái lạc huyễn ảo như thế. Sự khoái lạc mà người có trí huệ mong cầu phải là một sự khoái lạc chân chánh và thường tồn!

Người em nghe anh nói, cảm thấy mình không có lý lẽ gì để tranh cãi thêm nữa, nhưng trong lòng không phục, bèn nén giận cúi đầu ra về.

Người anh biết em mình không thể nói một lần mà hiểu, bèn nêu rõ tâm chí muốn cầu học đạo của mình. Người em biết anh mình lòng đã cương quyết hướng về đạo nên dù bực tức vẫn im lặng không phản đối.

Không lâu sau đó, người anh vì muốn cho việc học đạo được chuyên tâm nên lìa bỏ gia đình, khoác y ôm bình bát làm sa-môn, ngày đêm tinh tiến tu thiền, cẩn thận từng lời nói, từng ý nghĩ, về sau chứng được quả A-la-hán.

Người em nghe tin này không những không vui mừng mà lòng phiền não giận hờn anh càng tăng thêm. Vì si mê nên từ sáng đến tối anh ta chỉ biết lo làm ăn để tích lũy tài sản, cho đến mức đầu óc phải choáng váng, còn việc nhân sinh giải thoát thì anh ta không mảy may chú ý đến.

Cuối cùng, tài sản kếch sù mà anh ta có được cũng không giúp kéo dài mạng sống vốn có giới hạn. Quả thật, khi chết đi là không đem theo được bất cứ vật gì, chỉ có nghiệp lực đã tạo là vẫn luôn theo sát bên mình.

Trong lúc sống người em quá ư tham dục nên sau khi chết liền bị đọa vào loài súc sinh, đầu thai làm thân trâu. Con trâu này sinh ra mạnh khoẻ mập mạp, liền bị một người nhà buôn mua về để kéo xe muối.

Vì phải kéo xe trèo dốc đường dài, lao khổ không phút nào ngừng nghỉ, nên con trâu mất sức, gầy mòn, mỗi lần lên dốc thở phì phò mà vẫn bị roi vọt, trông thật là thê thảm, thương tâm. Vừa đúng lúc ấy, người anh đi ngang qua dùng đạo nhãn quán sát con trâu, biết đây là em mình ngày trước nên nói để khai mở trí huệ cho em:

– Chú ơi, một đời chú khổ cực, gia tài sản nghiệp chú gom góp được tính ra không biết bao nhiêu mà kể, bây giờ tài sản ấy đâu rồi? Trước kia chú nói việc tu đạo là vô dụng vì không đem lại quần áo, tiền của, chỉ có việc tích lũy tài sản mới đáng quý vì nó giúp chú thỏa mãn mọi dục lạc. Bây giờ đạo pháp đã giúp anh giải thoát được luân hồi, chứng được quả thánh, còn tài sản mà chú quý trọng sao lại không cứu chú thoát khỏi kiếp trâu mà sinh về cõi lành?

Nói xong, người anh vận dụng thần thông khiến con trâu tự thấy được kiếp trước của mình. Con trâu tuy không nói được nhưng đau khổ rơi nước mắt, biết mình kiếp trước có được thân người nhưng lại làm nhiều điều bất thiện, tham lam, ganh ghét, không tin Phật pháp, khinh chê Thánh chúng, không nghe lời khuyên bảo thiện lành của anh, cho đến nỗi bây giờ đọa làm thân trâu, hối tiếc thì đã quá muộn.

Người anh biết em mình đã có tâm niệm hối hận và tự trách, liền xin với người chủ mua lại con trâu này, và đem mối quan hệ giữa mình với con trâu kể cho người chủ nghe. Người chủ trâu nghe xong tóc gáy dựng đứng, rùng mình ghê sợ, không dám nhận tiền mà đem trâu dâng tặng cho người anh. Người anh dắt trâu về chùa, cho nó quy y Tam Bảo và dạy nó niệm Phật. Không lâu sau, con trâu chết đi, sinh lên cõi trời Đao-lợi.

Về sau, người chủ con trâu nghĩ đến vấn đề sinh tử luân hồi cũng xả bỏ tất cả, chuyên tâm học đạo, cuối cùng cũng được mãn nguyện, chứng được Thánh quả, giải thoát phiền não.

Nỗ lực kiếm tiền cho chính bản thân mình thì tiền ấy không hề thuộc quyền sở hữu của mình; còn dùng tiền tài để đem lại hạnh phúc cho xã hội, ích lợi cho chúng sinh, thì tiền tài ấy mới chính thật thuộc về mình. Có nhân thì tất nhiên phải có quả, đây là một đạo lý bất di bất dịch.
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/09/2010(Xem: 3582)
Tha phương sinh sống xứ người, tuy thâm tâm lúc nào cũng hướng về quê hương mến yêu, thế nhưng phải chờ đợi đến hơn hai mươi năm trời, sau bao ngày khắc khoải suy tư Thanh mới đột ngột quyết định về nước nghỉ hè hai tháng. Chàng về Saigon viếng thăm họ hàng vài ngày, rồi lang thang du ngoạn khắp các vùng biển từ Sầm Sơn đến Vũng Tàu, sau cùng quay lại Nha Trang, chiều chiều thơ thẩn đi dài dài trên bãi, mắt lơ láo nhìn biển khơi xa xăm với nỗi buồn vời vợi.
02/09/2010(Xem: 3849)
“Khác hơn thường lệ, đôi bạn thân Hiển và Phước, đối ẩm trong lặng lẽ, chẳng ai chịu mở lời. Hiển nâng chung trà hớp từng ngụm, rồi dường như đang bâng khuâng thả hồn theo những chiếc lá phong đỏ thẩm từng chiếc, từng chiếc rụt rè buông rời cành theo làn gió chiều mơn man. Còn Phước thì cầm chung trà, đi tới lui đăm chiêu suy nghĩ, mấy lần định lên tiếng mà cố đè nén chưa chịu hở môi.
02/09/2010(Xem: 3727)
Nghĩa háo hức theo mẹ về Việt Nam thăm viếng quê hương. Sau mấy ngày vui nhộn làm sống lại những kỹ niệm ấu thơ tại Thủ Đức với bà con họ nội xa gần, chàng theo mẹ về quê ngoại, tạm trú tại nhà cậu Út ở thành phố Phan Rang, Ninh Thuận. Vì thuở nhỏ chàng không có cơ hội liên lạc với họ ngoại, nên dù được cậu tiếp đón rình rang, nhưng chàng muốn thân thiết với hai đứa em cô cậu thật khó.
01/09/2010(Xem: 5619)
Dù dòng thời gian đã xoá nhòa những hình ảnh quý gíá xa xưa, dù dấu chân của các Ngài đã rêu phong phủ kín. Nhưng những dấu chân ấy đã đi vào lịch sử nhân gian, dù tiếng nói các Ngài đã hòa vào không gian tĩnh lặng. Nhưng đâu đây vẫn còn vang vọng pháp âm của các Ngài, làm chấn động tâm tư huyết mạch của bao người con Phật. Trong quyển “Những Vị Phật ở Miền Tây Nam Việt Nam” này. Chúng tôi sưu tầm, nghiên cứu và ghi chép trung thực theo lời thuật của các vị Trưởng Lão uy tín; hay các vị trí thức trung hậu; hoặc trích trong các tài liệu giá tri được mọi người tin tưởng.
28/08/2010(Xem: 62887)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 4500)
Tết Mậu Thân 1968, một cái Tết mà Việt Cộng tràn về quá bất ngờ, tôi không thể tin rằng đó là sự thật. Mồng Một Tết vẫn ăn Tết sắm sửa bình thường. Nhà tôi ở lầu 2 trường Đồng Khánh vì tôi làm Giám Học tại trường này, bên hông là Tòa Hành Chánh và Lao xá Thừa Thiên - nơi giam giữ nhiều tù binh Việt Cộng. Cả ngày vẫn tấp nập bà con tới lui thắm viếng, chiều lại còn có con của các nhân viên trong trường đến thăm chuyện trò hàn huyên vui như ngày hội. Tối đến cả nhà còn bàn nhau nên đi ngủ sớm để ngày mai xuống phi trường đón gia đình người anh chồng về Huế ăn Tết.
28/08/2010(Xem: 58939)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
19/08/2010(Xem: 8943)
Tại Keelung, Đài Loan có một cửa hàng với cái tên là “Ngộ Duyên Hào”. Ông chủ Lâm vốn là một người rất tử tế, xung quanh khu vực ông sống có rất nhiều những cư dân đánh cá hay kiếm sống quanh đó.
04/08/2010(Xem: 4595)
Tác-giả Thiện Xuân Malkhanova là một con người thật đặc-biệt. Còn nhớ năm 2000 khi chị Trương Anh Thụy và tôi đi sang họp Đại-hội Văn-bút Thế-giới ở Mạc-tư-khoa, chúng tôi đã để ý đến chuyện đi đường, gặp con sâu róm ở dưới đất, chị đã ân cần lấy một cái lá nâng nó lên rồi đặt nó lên một cành cây gần đó. Một con người từ-bi đến với cả cỏ cây, đất đá! Chị bảo đó là điều chị đã học được từ đạo Phật.
04/08/2010(Xem: 4124)
Không biết từ lúc nào, mà ngôi tịnh thất vô danh thấp thoáng dưới tàn cây huỳnh đàn rậm lá trên đỉnh núi Ông cheo leo mây mù đong đưa bao phủ quanh năm, đã được dân quê dưới chân núi ưu ái gọi là am Mây Ngàn thay thế cho cái tên “chòi đạo Ân” mà họ hùa nhau ám chỉ túp lều lá của sư Từ Ân ngày trước. Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh... lặng lẽ lên tận đỉnh, khai phá được một khoảnh đất nhỏ làm rẫy. Sư bắt đầu trồng các loại rau đậu, khoai, bắp, cà dưa... để sớm gặt hái hoa lợi,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]