Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

41. Uy lực của lòng từ bi

26/03/201108:33(Xem: 6157)
41. Uy lực của lòng từ bi

CHUYỆN PHẬT ĐỜI XƯA
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

UY LỰC CỦA LÒNG TỪ BI

Chư Phật, Bồ Tát thường tu tập tâm từ bi, cho nên khi đối diện với những hoàn cảnh nguy nan thì có tâm từ ấy phát ra uy lực kỳ diệu để bảo vệ các ngài hoặc để cứu giúp chúng sanh. Trong kinh Đại Bát Niết-bàn, các quyển 15 và 16 có chép lại nhiều trường hợp linh diệu về uy lực của lòng từ bi, chúng tôi xin theo nội dung trong kinh mà lược kể lại dưới đây.

Có một lúc, Đề-bà-đạt-đa xúi giục vua A-xà-thế làm hại Như-lai. Lúc ấy, đức Phật cùng với các vị đệ tử đi khất thực vào thành Vương Xá. Vua A-xà-thế liền cho con voi dữ Hộ Tài uống rượu đến say cuồng rồi thả ra, muốn cho voi ấy làm hại Phật và các đệ tử.

Lúc đó, voi say hung dữ đạp chết rất nhiều người, máu đổ ra lênh láng khắp nơi, mùi máu bốc lên tanh nồng khắp nơi càng làm cho voi thêm hăng máu. Nó thấy những người ở gần Phật mặc áo màu đỏ, ngỡ là máu, liền hung hăng xông tới. Trong các đệ tử của Phật, những người chưa chứng thánh quả đều sợ chạy tứ tán, chỉ trừ ngài A-nan là không chạy.

Trong thành Vương Xá, tất cả nhân dân đều đồng thời kêu khóc, than vãn rằng: “Đáng buồn thay! Đáng buồn thay! Hôm nay đức Như Lai chắc phải chết mất! Tại sao chỉ trong một buổi mai mà Chánh giác phải tán hoại?”

Lúc ấy, Đề-bà-đạt-đa lấy làm vui vẻ, thốt lên rằng: “Sa-môn Cồ-đàm chết đi là phải lắm!. Từ nay trở đi, chắc chắn là ông ấy chẳng còn trên đời này nữa. Khoái thay! Sung sướng thay! Chủ ý của ta nay được toại nguyện!

Lúc ấy, đức Phật muốn hàng phục con voi say hung dữ Hộ Tài, liền nhập định từ bi, rồi duỗi tay ra chỉ nó. Tức thời, từ nơi năm ngón tay của Phật hiện ra năm con sư tử. Voi thấy vậy hoảng sợ, phủ phục ngay xuống đất nơi chân đức Phật.

Về sau, Phật dạy các đệ tử rằng: “Lúc ấy, ở năm ngón tay của Như Lai thật ra không có sư tử. Đó là sức thiện căn tu từ của Như Lai, khiến cho con voi ấy nhìn thấy như thế và chịu khuất phục.

Một lúc khác, khi Phật định nhập Niết-bàn, mới đi về phía thành Câu-thi-na. Được nửa đường, ngài nhìn thấy có năm trăm người lực sĩ đang dọn dẹp, quét tước đường sá. Ngay giữa đường có một hòn đá. Họ muốn dẹp hòn đá ấy, nhưng dùng hết sức mà không sao nhấc nổi. Lúc ấy, đức Phật lấy làm thương xót, tâm từ bi phát khởi mạnh mẽ. Liền đó, Phật dùng ngón chân cái hất hòn đá to ấy lên hư không, rồi đưa tay ra đón lấy, đặt nằm yên trong bàn tay mặt. Rồi ngài thổi cho đá ấy tan thành bụi, sau đó làm cho bụi ấy hợp trở lại thành hòn đá. Sức thần thông mầu nhiệm ấy khiến cho lòng kiêu ngạo của các lực sĩ ấy bị dứt sạch.

Khi ấy, Phật mới thuyết giảng cho họ nghe về những lẽ cốt yếu trong Phật pháp, khiến cho cả bọn họ đều phát tâm Bồ-đề, nguyện sẽ tinh tấn tu hành thành Phật.

Về sau, Phật dạy các đệ tử rằng: “Lúc ấy, thật ra Như Lai không hề lấy ngón chân cái mà hất hòn đá to lên hư không, đặt nó vào lòng bàn tay, thổi cho tan thành bụi, rồi làm cho hiệp lại như cũ. Nên biết rằng, đó là sức mạnh của lòng từ bi, khiến cho các lực sĩ đều nhìn thấy sự việc rõ ràng như vậy.”

Cũng vào thời Phật còn tại thế, ở miền nam Ấn Độ có một thành lớn tên là Thủ-ba-la. Trong thành có một trưởng giả tên là Lư-chí, làm Đạo chủ một chúng tu hành. Ông ta là một người đã từng làm rất nhiều việc thiện trong quá khứ, và đã từng được gặp rất nhiều đức Phật ra đời.

Trong thành Thủ-ba-la, tất cả nhân dân đều tin theo tà đạo, hết lòng phụng sự các thầy tu lõa thể của phái Ni-kiền.

Lúc ấy, vì muốn hóa độ cho trưởng giả Lư-chí và nhân dân trong thành Thủ-ba-la, đức Phật liền rời khỏi thành Vương Xá mà đến thành ấy.

Bọn lõa thể phái Ni-kiền khi nghe biết rằng đức Phật sắp đến thành Thủ-ba-la, liền nghĩ rằng: “Nếu sa môn Cồ-đàm đến đây, chắc hẳn nhân dân ở đây sẽ bỏ chúng ta mà tin theo ông ấy. Như vậy, họ sẽ không còn chu cấp, phụng sự chúng ta nữa. Chúng ta sẽ nghèo khó, thiếu thốn, làm sao có thể tự sinh sống được?”

Bọn Ni-kiền bèn cùng nhau phân tán ra khắp thành, rêu rao với nhân dân ở thành ấy rằng: “Sa-môn Cồ-đàm nay sắp đến đây. Nhưng sa môn ấy là người phụ rẫy cha mẹ, chạy đông chạy tây. Ông ta đến đâu thì khiến cho đất đai và lúa thóc ở đó mất mùa, nhân dân nghèo đói, chết chóc, dịch bệnh xâm hại, không thể giải cứu. Cồ-đàm là kẻ vô lại. Đi theo ông ta chỉ toàn là bọn La-sát, quỉ thần hung dữ. Những kẻ không cha không mẹ, cô đơn cùng quẫn mới đến với ông ta, hỏi han và chịu làm môn đồ của ông ta. Nhưng những điều mà ông ta có thể dạy, chẳng qua chỉ toàn là thuyết hư không. Ông ta đến nơi nào thì nơi ấy không bao giờ được an lạc.”

Những người dân trong thành nghe lời ấy thì đem lòng sợ sệt, liền đảnh lễ bọn Ni-kiền ấy mà bạch rằng: “Đại sư! Nay chúng tôi biết phải làm sao đây?”

Bọn Ni-kiền đáp: “Sa-môn Cồ-đàm tánh ưa thích rừng cây, suối chảy, nước trong. Ở ngoài thành, nơi nào có những cảnh vật ấy, nên phá huỷ hết đi. Các ngươi nên kéo nhau đi ra khỏi thành, đến những nơi có cây cối vườn rừng thì chặt đốn cho hết, đừng để lại chi cả. Còn những suối, giếng, ao nước thì nên trút phẩn dơ vào. Hãy đóng chặt các cửa thành, mỗi nơi đều sắp đặt binh khí nghiêm chỉnh, nơi vách thành nên phòng hộ, giữ gìn cho kiên cố. Nếu người ấy đi đến, đừng cho ai đi tới trước mặt ông ta. Các ngươi làm như thế thì sẽ được an ổn. Chúng ta cũng sẽ tìm mọi cách để làm cho ông Cồ-đàm ấy cứ theo đường cũ mà trở về.”

Nhân dân trong thành ấy nghe vậy rồi thảy đều cung kính, vâng lệnh thi hành. Họ bèn đốn chặt cây cối, làm ô uế các nguồn nước, rồi bố trí binh khí, cắt cử người tuần phòng và hộ vệ một cách nghiêm ngặt.

Khi ấy, đức Phật vừa đến thành Thủ-ba-la, thấy cây cối vườn rừng đều bị chặt phá tàn héo, lại có những người nghiêm bị binh khí đang phòng vệ ở các vách thành. Thấy cảnh hoang tàn như vậy, Phật lấy làm thương xót, liền mở lòng từ bi hướng về những cây cối bị chặt phá. Ngay khi ấy cây cối liền xanh tươi trở lại như cũ, lại còn nảy nở sinh sôi thêm nhiều cây chồi mới, um tùm rậm rạp. Những nguồn nước giếng, sông suối, ao hồ, thảy đều trở nên trong sạch, đầy tràn. Các vách thành bỗng hóa ra trong suốt như màu lưu ly, khiến cho từ bên trong thành nhân dân đều nhìn thấy đức Phật và đại chúng oai nghi rực rỡ. Rồi cửa thành tự nhiên mở rộng, không còn ai có thể ngăn cản được. Các món binh khí tự nhiên đều hóa thành những thứ hoa lá xinh đẹp, mềm mại.

Khi ấy, trưởng giả Lư-chí dẫn đầu tất cả nhân dân trong thành, cùng đến nơi Phật ngự. Đức Phật liền giảng cho họ nghe mọi lẽ cốt yếu trong Phật pháp, khiến cho tất cả mọi người đều phát tâm Bồ-đề, nguyện tu hành tinh tấn cho đến khi thành tựu quả Phật.

Về sau, Phật dạy các vị đệ tử rằng: “Lúc ấy, thật Như Lai chẳng hề biến hoá ra mọi thứ cây cối xanh tốt, nước sạch đầy tràn sông rạch ao hồ... Như Lai cũng chẳng có làm cho vách thành ấy hóa ra trong suốt như lưu ly, làm cho nhân dân được nhìn thấy Phật. Như Lai cũng chẳng có mở cửa thành, biến hóa đồ binh khí thành hoa lá. Nên biết rằng, đó đều do sức mạnh của lòng từ bi, khiến cho tất cả những người ấy thấy việc như vậy.”

Cũng vào thời đức Phật, trong thành Xá-vệ có một người phụ nữ Bà-la-môn, họ Bà-tư-trá. Bà chỉ có một đứa con trai mà thôi. Bà rất yêu thương nó, nhưng nó chẳng may bị bệnh mất đi.

Lúc ấy, sự buồn phiền đau đớn xâm chiếm lòng bà, khiến bà cuồng loạn mất trí. Bà loã lồ thân thể mà không biết thẹn, đi lang thang đến các ngã tư đường, la khóc thất thanh, rồi gào thét rằng: “Con ơi! Con ơi! Con đi đến chốn nào?” Bà đi khắp trong các thành ấp, không biết mệt mỏi.

Nhưng người phụ nữ ấy lại vốn là người đã có căn lành, vun trồng cội đức từ thời chư Phật thuở xưa.

Bấy giờ, đức Phật khởi lòng từ mẫn đối với người phụ nữ tội nghiệp ấy. Ngay lúc ấy, bà ta liền được nhìn thấy Phật, nhưng trong tâm tưởng rằng Phật là đứa con đã mất của bà. Bà ta liền tỉnh táo như xưa, đến trước đức Phật và ôm hôn thân Phật.

Đức Phật liền dạy ngài A-nan rằng: “Ngươi hãy đem áo lại đây cho nữ nhân này mặc.” Khi bà có áo mặc vào rồi, đức Phật liền giảng cho bà nghe mọi lẽ cốt yếu trong Phật pháp. Nghe pháp xong, bà lấy làm vui vẻ thích chí. Bà liền phát tâm Bồ-đề, nguyện tu hành thành Phật.

Về sau, Phật dạy các đệ tử rằng: “Lúc ấy, thật ra Như Lai chẳng có hiện hình là con của bà ấy, bà cũng chẳng phải là mẹ của Như Lai, cũng chẳng có đến ôm hôn thân Phật. Nên biết rằng đó là đều là sức mạnh của lòng từ bi, khiến cho người phụ nữ ấy thấy việc như vậy.”

Cũng vào thời đức Phật, trong thành Ba-la-nại có một người nữ cư sĩ tên là Ma-ha Tư-na-đạt-đa. Người phụ nữ ấy đã gieo trồng các căn lành trong đời quá khứ, đã được gặp vô số chư Phật ra đời. Người nữ cư sĩ ấy có xin phép chúng tăng, trong chín mươi ngày mùa hạ được phụng thí thuốc thang cho những vị tỳ-kheo đau ốm.

Trong chúng tăng khi ấy có một thầy tỳ-kheo có bệnh nặng. Thầy thuốc xem mạch, nói chắc rằng: “Nên dùng món thịt làm thuốc. Nếu ông dùng được thịt, bệnh ông sẽ dứt. Nếu ông chẳng dùng được thịt, mạng ông phải mất.”

Lúc ấy, người nữ cư sĩ kia nghe được lời của thầy thuốc, liền mang tiền vàng đi khắp các chợ, rao hỏi rằng: “Ai có thịt bán, tôi sẽ đổi bằng vàng, vàng với thịt cân lượng bằng nhau.”

Cô ta đi khắp thành thị, nhưng cũng chẳng tìm được thịt. Cuối cùng, cô mới trở về, tự tay cầm dao thẻo thịt ở bắp vế mình, cắt ra nấu cháo, dùng nhiều thứ gia vị thơm tho rồi đem dâng cho thầy tỳ-kheo có bệnh. Thầy tỳ-kheo ấy ăn xong liền dứt bệnh.

Còn người nữ cư sĩ ấy, chỗ cắt thịt hoá thành ghẻ độc, đau đớn khổ não khôn xiết. Trong cơn đau đớn cùng cực, cô mới lớn tiếng niệm rằng: “Nam mô Phật-đà! Nam mô Phật-đà!”

Lúc ấy, đức Phật đang ở tại thành Xá-vệ, nghe được tiếng niệm Phật, liền khởi lòng đại từ đối với người nữ cư sĩ ấy. Tức thì người nữ cư sĩ ấy liền nhìn thấy Phật hiện đến, tay cầm lương dược phết lên ghẻ độc, da thịt liền lành lặn như cũ. Đức Phật lại thuyết giảng mọi lẽ cốt yếu của Phật pháp cho cô nghe. Nghe pháp xong, người nữ cư sĩ ấy lấy làm vui vẻ, liền phát tâm Bồ-đề, nguyện tu hành tinh tấn cho đến khi thành Phật.

Về sau, Phật dạy các vị đệ tử rằng: “Lúc ấy, thật Như Lai chẳng có hiện đến thành Ba-la-nại, đem thuốc hay mà phết lên ghẻ độc của người nữ cư sĩ ấy. Nên biết rằng, đó là do sức mạnh của lòng từ bi, khiến cho nữ nhân ấy thấy có việc như vậy.”

Lại có một lần, Đề-bà-đạt-đa lòng tham vô độ, chẳng hề biết đủ, ăn món bơ nhiều quá nên bị nhức đầu, đau bụng, rất khổ sở. Ông đau đến mức không chịu nổi, mới niệm lớn rằng: “Nam mô Phật-đà! Nam-mô Phật-đà!.”

Lúc ấy, đức Phật đang ở tại thành Ưu-thiền-ni, nghe tiếng niệm Phật, liền sanh khởi lòng từ bi. Liền đó, Đề-bà-đạt-đa nhìn thấy Phật hiện đến, lấy tay xoa đầu, xoa bụng cho ông và đưa thuốc cho uống. Ông ta uống xong liền bình phục.

Về sau, Phật dạy các đệ tử rằng: “Lúc ấy, thật Như Lai chẳng có đến chỗ Đề-bà-đạt-đa, xoa đầu, xoa bụng, đưa thuốc cho người uống. Nên biết rằng, đó đều do sức mạnh của lòng từ bi, khiến cho Đề-bà-đạt-đa thấy có việc như vậy.”

Cũng vào thời đức Phật, ở nước Kiều-tát-la có một bọn cướp đến năm trăm người, chuyên cướp giết người, gây hại lớn cho bá tánh. Vua Ba-tư-nặc đang cai trị tại kinh thành Xá-vệ của nước ấy, lấy làm lo ngại vì sự hoành hành bạo ngược của chúng, mới sai quân binh vây bắt họ. Sau khi bắt được, mới làm cho mù mắt bọn họ rồi đem bỏ vào nơi rừng sâu đen tối.

Nhưng những người ấy vốn trước đây đã từng trồng căn lành cội đức khi gặp chư Phật quá khứ ra đời, nên cho đến nay tín tâm vẫn không hoại mất. Khi bị mù mắt rồi, họ đau đớn khổ não khôn xiết, mới đồng thanh niệm lớn rằng: “Nam mô Phật-đà! Nam mô Phật-đà! Hôm nay đây không có ai cứu hộ chúng tôi!” Rồi họ khóc lóc, kêu than.

Lúc ấy, đức Phật đang ở tại tinh xá Kỳ-hoàn gần thành Xá-vệ, nghe tiếng than khóc ấy, liền sanh khởi lòng đại từ bi. Tức thì, có một ngọn gió lành thổi hương vào chốn rừng sâu đen tối ấy. Các thứ hương thuốc xông vào mắt của những người kia, dần dần họ được sáng mắt trở lại, y nguyên như cũ.

Những người ấy vừa sáng mắt ra, liền thấy Như Lai đang đứng trước họ, thuyết pháp với họ. Nghe pháp xong, bọn họ đồng phát tâm Bồ-đề, nguyện tu hành tinh tấn cho đến khi thành quả Phật.

Về sau, Phật dạy các đệ tử rằng: “Lúc ấy, thật Như Lai chẳng có làm ra gió lành thổi hương vào núi cùng với những thứ hương thuốc trị lành được mắt mù của họ, cũng chẳng có đứng trước bọn họ mà thuyết pháp. Nên biết rằng, đó đều là do sức mạnh của lòng từ bi, khiến cho bọn người ấy thấy có những việc như vậy.”

Cũng vào thời đức Phật, thái tử Lưu-ly là con vua Ba-tư-nặc ở thành Xá-vệ, nước Kiều-tát-la. Vì ngu si nên phế truất vua cha, tự mình cướp lấy ngôi vua. Thái tử lại nhớ tới một mối thù hận xa xưa, nên làm hại nhiều người thuộc dòng họ Thích-ca ở thành Ca-tỳ-la-vệ. Người bắt được một vạn hai ngàn nữ nhân họ Thích-ca, mới đem cắt tai, xẻo mũi, chặt đứt hết tay chân rồi xô xuống hào sâu.

Những người nữ ấy bị khổ sở đau đớn cùng cực, liền đồng thanh niệm lớn rằng: “Nam mô Phật-đà! Nam mô Phật-đà! Nay chẳng có ai cứu hộ chúng tôi.” Rồi họ lại kêu la, than khóc thảm thiết.

Những người nữ này vốn đã từng trồng các căn lành đối trước chư Phật trong quá khứ.

Lúc ấy, đức Phật đang ở tại tinh xá trong vườn Trúc Lâm gần thành Vương Xá. Nghe tiếng khóc la của bọn họ, ngài liền khởi lòng đại từ. Tức thì, các người nữ ấy thấy Phật hiện đến thành Ca-tỳ-la-vệ, dùng nước mà rửa các vết thương cho họ và dùng thuốc mà đắp lên cho họ. Dần dần, họ hết đau nhức, lỗ tai, lỗ mũi, tay chân cũng lành lặn trở lại y nguyên như cũ.

Bấy giờ, đức Phật mới thuyết những lẽ cốt yếu của Phật pháp cho họ nghe, khiến cả thảy đều phát tâm Bồ-đề, nguyện tu hành tinh tấn cho đến khi thành quả Phật. Ngay hôm ấy, họ tìm đến chỗ bà tỳ-kheo ni Đại Ái Đạo, xin xuất gia thọ giới cụ túc.

Về sau, Phật dạy các đệ tử rằng: “Lúc ấy, thật Như Lai chẳng có hiện đến thành Ca-tỳ-la-vệ, chẳng có dùng nước rửa các vết thương và dùng thuốc chữa lành cho các nữ nhân ấy. Nên biết rằng, đều là do sức mạnh của lòng từ, khiến các nữ nhân ấy thấy có việc như vậy.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7435)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8358)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7129)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6015)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 6956)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5266)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3954)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8461)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 22746)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4600)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]