Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

13. Vật trả ơn, nhơn trả oán

26/03/201108:33(Xem: 5832)
13. Vật trả ơn, nhơn trả oán

CHUYỆN PHẬT ĐỜI XƯA
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

VẬT TRẢ ƠN, NHƠN TRẢ OÁN

Thuở trước, có một nước lớn kia, nhà vua nhờ học thông kinh điển nên hiểu biết rất sâu xa. Thấy rõ được sự giả tạm của cuộc đời, vua tự nghĩ rằng: “Một mai ta thác rồi, thân thể tan ra thành đất, cuộc danh lợi này còn có ý nghĩa gì đâu?”

Vua liền từ bỏ cung điện, xa nẻo lợi danh, dứt đường vui sướng, thọ pháp xuất gia làm một vị tỳ-kheo. Vị tỳ-kheo này tu hành tinh tấn, nghiêm trì giới luật, vào tận trong rừng sâu núi thẳm để chuyên tâm tu tập, có đến hơn ba mươi năm chưa từng trở lại chốn thị thành.

Một hôm, ngài đang ngồi thiền dưới một gốc cây lớn. Gần đó có một cái hang rất sâu không có đường lên. Bỗng có một anh thợ săn, vì ham đuổi theo mồi mà sẩy chân té xuống hang. Sáng hôm ấy anh vừa bắn được một con quạ và một con rắn, cùng nhốt trong cái túi vải đeo sau lưng cũng rớt theo xuống hang. Người thợ săn cất tiếng kêu la thảm thiết. Vị tỳ-kheo nghe tiếng kêu cứu dưới hang sâu, vội đi tìm một sợi dây dài thả xuống hang. Anh thợ săn nắm lấy dây mà trèo lên. Nhân khi té xuống hang, cái túi vải bị trầy rách nên quạ và rắn mới ngoi đầu ra được. Vị tỳ-kheo thấy thế liền mở túi cứu hai con vật ấy ra.

Bấy giờ, anh thợ săn quỳ lạy nói rằng: “Mạng sống của tôi may mà còn được là nhờ ơn lớn của ngài. Vậy tôi nguyện trọn đời ghi nhớ và dốc sức đền đáp.”

Vị tỳ-kheo nói: “Ta trước đây là vua một nước lớn giàu mạnh. Lầu đài, dinh thự, bảo vật, cung phi... chẳng có vua nào khác có nhiều hơn ta. Sự hưởng thụ của ta đã thoả, ta muốn điều chi thì có điều ấy, chẳng khác nào như vừa kêu lên trong rừng này thì liền có tiếng vang dội lại liền. Nhưng ta ngồi trên ngôi vua, thấy triều thần quan tước đầy những sự ganh ghét tranh giành. Ta lại nghĩ rằng, sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon ngọt, cùng là áo quần chải chuốc, với những ham muốn dục vọng là sáu lưỡi gươm chém nát thân này, sáu mũi tên đâm thủng tim mình. Sáu việc nhơ nhuốc xấu xa ấy làm cho con người phải ở mãi trong vòng luân hồi mà chịu đau khổ luôn luôn. Xét như thế cho nên ta mới bỏ ngôi vua mà đi làm một thầy tu. Ta dốc lòng tìm đạo lý chân chính từ bi, không còn tham đắm mùi thế tục, chỉ mong thành chánh quả mà độ chúng sanh ra khỏi nơi khổ hải. Ta đã có tâm nguyện lớn lao đó, đâu còn muốn thọ nhận sự đền đáp của ngươi. Vậy ngươi cứ về nhà đi. Và như có bà con thân thích, hãy khuyên họ nên lánh dữ làm lành, như vậy là được rồi.”

Anh thợ săn nói: “Tôi không phải là người theo đạo Phật, nhưng tôi đã thấy nhiều người ngoại đạo cũng ăn ở hiền từ như tín đồ nhà Phật, thường cứu giúp người khác mà không màng đến danh lợi chi cả. Ngài đây đã là một bậc chân tu, tôi muốn mời ngài khi nào ghé vào nhà tôi chơi.”

Rồi anh thợ săn từ biệt ra về. Anh ta đi rồi, con quạ mới nói: “Thưa ngài, tôi không khéo nói những lời biết ơn như người kia, nhưng cũng xin tìm cách báo đáp ơn cứu mạng của ngài.” Rồi nó bay đi.

Khi ấy, con rắn nói: “Tôi tên là Trăn. Ngày sau nếu ngài có việc chi cần đến, xin cứ gọi tên tôi thì tôi xin đến để đền đáp ơn cứu mạng của ngài.” Rồi nó bò đi.

Về phần anh thợ săn, tuy ngoài miệng nói lời biết ơn nhưng trong lòng nghĩ đến việc sổng mất con quạ với con rắn thì đâm ra bực tức. Đã vậy, là người ngoại đạo nên anh ta vốn không ưa các vị tỳ-kheo tu theo đạo Phật.

Một hôm, vị tỳ-kheo nhân đi ra bìa rừng, mới tiện đường ghé đến nhà anh thợ săn. Anh ta nhìn thấy từ xa, liền gọi người vợ mà dặn rằng: “Lão tỳ-kheo ấy chẳng theo một đạo với ta. Như lão có vào nhà, thì mình cứ nấu cơm cho ngon, nhưng nấu cho thật chậm. Hễ quá ngọ thì lão không thể ăn được.” Chị vợ nghe lời dặn, thấy vị tỳ-kheo vào nhà liền ra bộ ân cần giữ lại để dọn cơm mà đãi. Song chị ta cố ý làm thật chậm chạp, thành ra trời đã quá ngọ mà cơm nấu chưa xong. Vị tỳ-kheo thấy vậy thì kiếu ra về.

Về phần con quạ, nó bay về tổ rồi thì cứ nghĩ mãi không biết làm sao đền đáp ơn cứu mạng của vị tỳ-kheo. Thế rồi. Cuối cùng nó nghĩ ra một cách, liền bay đến kinh thành, lẻn vào cung vua. Thấy hoàng hậu đang ngủ say, trên búi tóc có đính một hạt kim cương lớn chói sáng rực rỡ. Quạ liền cắp lấy hạt kim cương rồi bay trở về, mang đến dâng cho vị tỳ-kheo.

Hoàng hậu thức dậy, tìm không thấy hạt kim cương quý, mới báo với vua rằng hạt kim cương đã mất rồi. Vua truyền rao trong nhân dân rằng: “Ai tìm được hạt kim cương, nhà vua sẽ thưởng cho một ngàn cân vàng, một ngàn cân bạc, một ngàn con bò và một ngàn con ngựa.”

Vị tỳ-kheo nhận lòng thành của con quạ dâng cho hạt kim cương, nhưng ngài nào có muốn dùng nó làm gì. Nghĩ thương cảnh nhà người thợ săn nghèo khó, ngài mới mang hạt kim cương ấy đến cho anh ta. Ngờ đâu, anh ta đã nghe lệnh vua truyền, nên liền bắt trói vị tỳ-kheo và đem nộp lên vua để lãnh thưởng.

Vua hỏi vị tỳ-kheo rằng: “Hạt kim cương này do đâu mà ngài có?” Vì tỳ-kheo suy nghĩ rằng: “Nếu ta nói thật, e rằng loài quạ trong cả nước này sẽ bị giết cả. Còn như nhận rằng ta lấy hạt kim cương này, thì trái với đạo lý cùa người tu hành, không xứng đáng là đệ tử của đức Phật vậy.”

Nghĩ như vậy, ngài bèn im lặng không nói gì cả. Vua tức giận, sai mang ra dùng trượng đánh rất nặng nề. Nhưng dù bị cực hình đau đớn, ngài cũng không đem lòng oán giận ai cả. Ngài khởi lòng từ bi mà khấn nguyện rằng: “Trong trần thế còn có nhiều người ngu si mà hành xử sai với đạo lý như thế, ngày sau không tránh khỏi phải chịu quả báo nặng nề. Ta nguyện tu hành thành Phật mà cứu vớt cho hết thảy bọn họ.”

Vua thấy ngài chịu đòn đau mà không mở miệng van xin, lại sanh lòng giận dữ, thét quân hầu rằng: “Bắt lão này đem chôn sống đi, chỉ để ló cái đầu lên thôi, đợi vài hôm sẽ giết.”

Quân lính mang ngài ra chỗ đồng trống, chôn cả thân hình xuống chỉ chừa ló cái đầu lên trên mặt đất. Đêm đến, ngài vừa đói vừa khát nước quá, không biết làm sao mới nhớ lại và gọi tên con rắn. Rắn liền bò đến. Thấy ân nhân lâm nạn, nó cúi đầu xuống đất lạy chào và hỏi rằng: “Sao ngài lại ra đến nông nỗi này?” Vị tỳ-kheo mới đem đầu đuôi tự sự mà thuật lại. Con rắn khóc, vội bò đi tìm thức ăn nước uống mang đến cho ngài rồi than rằng: “Lòng từ bi của ngài rộng lớn như trời đất mà sao phải nạn khổ như thế này! Để tôi nghĩ cách cứu ngài.”

Đêm ấy, rắn liền bò vào cung vua cắn chết thái tử. Nguyên là nhà vua chỉ có một người con trai duy nhất. Rắn cắn chết thái tử rồi mới trở lại chỗ thầy tỳ-kheo, nói rằng: “Nay thái tử đã bị chết vì nọc độc của tôi, nhưng có thuốc giải này của tôi thì có thể cứu người sống lại. Ngài hãy nhận lấy thuốc giải này, ngày mai cứu sống thái tử thì vua nhân đó có thể tha mạng cho ngài.” Rồi rắn để thuốc giải lại bên cạnh thầy tỳ-kheo mà bò đi.

Sáng hôm sau người ta mới phát hiện thái tử đã bị rắn cắn chết. Nhà vua đau đớn vô cùng, truyền rao khắp nơi rằng: “Như ai cứu sống được thái tử, trẫm sẽ chia cho phân nửa giang san mà hưởng sự vinh hoa phú quí.”

Rồi không ai đến cứu được thái tử, người ta mới đem xác thái tử vào núi để thiêu. Khi khiêng xác đi ngang qua chỗ chôn vị tỳ-kheo, ngài liền gọi lại mà nói rằng: “Hãy khoan thiêu xác thái tử đã, bần tăng có thể cứu sống được.” Quân hầu nghe mấy lời ấy, liền hối hả tâu lại với vua. Nhà vua mừng lắm, truyền đưa ngay đến chỗ ngài và nói: “Như thật đại đức có thể cứu sống thái tử, trẫm sẽ tha tội cho đại đức, và trẫm cũng sẽ chia cho ngài phân nửa giang san để cùng làm vua như trẫm.”

Vị tỳ-kheo lấy thuốc giải của rắn cạy miệng thái tử đổ vào, giây lát liền sống lại. Nhà vua mừng vui khôn xiết, truyền chia phân nửa đất nuớc của mình cho vị tỳ-kheo. Nhưng ngài từ chối không nhận.

Bấy giờ, vua mới ngạc nhiên hỏi rằng: “Bạch đại đức, nếu như ngài không tham lấy phân nửa giang san của trẫm, thì có lý nào ngài lại là người ăn cắp hạt kim cương kia? Vậy sự thật là như thế nào, xin ngài cho trẫm biết. Vì sao ngài là người hoàn toàn trong sạch lại chấp nhận hình phạt mà không một lời than vãn kêu oan?”

Vị tỳ-kheo liền nói: “Tâu bệ hạ, nếu muốn bần tăng nói ra sự thật, xin bệ hạ giao trọn quyền cho bần tăng được phán xử những kẻ liên quan.” Vua ưng thuận. Vị tỳ-kheo liền đem hết đầu đuôi câu chuyện kể lại cho vua nghe. Vua nghe rồi trong lòng xúc động, nước mắt tràn ra trên mặt, vừa cảm phục đức độ của một vị chân tu, vừa hổ thẹn vì sự phán xét sai lầm của mình.

Liền khi ấy, vua truyền lệnh bắt giết cả nhà người thợ săn và tru di cả ba họ. Nhưng vị tỳ-kheo liền nói rằng: “Xin bệ hạ giữ lời đã hứa, giao quyền cho bần tăng được quyết định.” Vua liền hỏi: “Đại đức phán xử thế nào?” Vị tỳ-kheo đáp: “Việc làm thiện hay ác của mỗi người đều tự có quả báo tương xứng. Bệ hạ không cần phải nặng tay trừng trị. Xin tha cho người này được về quê sinh sống. Và xin đừng làm hại đến loài quạ trong nước này.”

Vua hết lòng cảm phục đức từ bi của ngài, nhân đó liền xin được quy y Tam bảo, thọ trì Ngũ giới và tu hành theo Thập thiện đạo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/06/2014(Xem: 7205)
Qua không quen Mận mà biết Đào - đứa con gái 25 tuổi của Mận - qua một số lần giao dịch mua bán nhà. Đây là việc làm thêm nhưng lại là thu nhập chính của Đào (và Mận). Qua những thương vụ làm ăn chung, Đào tỏ ra là người nhanh, nhạy, thông minh và sòng phẳng.
23/06/2014(Xem: 4712)
Chiều nay, một chiều thật an bình, dưới bóng râm mát diệu của những tàn cây xanh, lồng lộng tiếng chim như trĩu thanh âm xuống phòng khách bên trong một ngôi đạo tràng. Bình trà đã rót nhiều lần, nhưng hương vị trà hãy còn thấm đậm theo dòng thế sự hoài niệm cổ kim.
21/06/2014(Xem: 9964)
Chúng tôi, Nhóm Học Phật chùa Quang Nghiêm, gồm một số thân hữu và những huynh trưởng Gia Đình Phật Tử trong vùng có cơ duyên gần gũi và học hỏi cùng thầy trong nhiều năm qua. Nhân đó, chúng tôi được biết, Thầy là một cây viết thường xuyên trên tập san: THEO DẤU CHÂN XƯA của Phật học viện Huệ Nghiêm, SÀI GÒN trước 1975. Nhưng sau những đợt đốt sách của chính quyền Cộng Sản, THEO DẤU CHÂN XƯA không còn nữa. Càng gần Thầy, chúng tôi nhận thấy những gì Thầy dạy và viết thật thực tế và giản dị trong việc áp dụng Đạo Phật vào đời sống hằng ngày cho chúng ta. Chúng tôi không muốn có sự thất thoát như xưa, nên mạo muội sưu tập một số bài mà Thầy đã viết trong thời gian qua. Đây là một món quà tinh thần của Thầy mà chúng tôi đã rút ra những bài học bổ ích cho cuộc sống hàng ngày. Có một điều quan trọng nữa là bài học thân giáo của Thầy: phong cách hiền hòa và đức độ lan tỏa từ Thầy êm đềm như dòng sông Thu Bồn xứ Quảng. Trong bất cứ lúc nào, nếu có dịp, Thầy thường nhắc nhở: “Học Phật có n
20/06/2014(Xem: 10588)
Thuở xưa có một con rùa, vào một buổi chiều đi kiếm mồi bên một cái đầm vắng. Một con dã can cũng đi kiếm mồi cạnh cái đầm ấy. Con rùa lanh lợi kia vừa thấy dã can từ xa đi tới thì nghĩ rằng : “Dã can nầy đã từng gây hại cho loài của ta, vậy nay ta phải thận trọng.” Nghĩ vậy con rùa bèn thâu bốn chân và thứ năm là cái cổ vào trong chiếc mai rắn chắc của mình, rồi nằm im bất động.
20/06/2014(Xem: 4722)
Gia đình là nền tảng của xã hội. Muốn tạo dựng một xã hội phồn thịnh an vui, có lẽ ta cần phải có thật nhiều mái ấm gia đình mới phải. Thế nhưng trong thực tế thì than ơi, ta chỉ gặp toàn những gia đình tiêu biểu cỡ anh chồng Nguyễn văn Đầu Vịt và chị vợ Trần thị Lá Sen như câu chuyện Mái Ấm Chợ Chiều dưới đây.
16/06/2014(Xem: 13520)
Chuyện Thiền Môn là những câu chuyện do chúng tôi biên soạn. Những mẫu chuyện nầy đã đăng rải rác trong các Bản Tin Đại Tòng Lâm Phật Giáo. Bắt đầu từ số 17 cho đến số 29. Mỗi Bản Tin được kèm theo trong tờ Đặc san Phước Huệ phát hành ấn tặng mỗi kỳ vào các dịp đại lễ như: Phật Đản, Vu Lan và Tết Nguyên Đán. Tuy là câu chuyện dài nhưng mỗi kỳ đều có mỗi chủ đề khác nhau. Những nhân vật trong câu chuyện không phải là những nhân vật có thật ở trong đạo, nếu có sự trùng hợp thì đó chẳng qua là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, ngoài ý muốn của bút giả. Chúng tôi dựa vào một vài nét sinh hoạt thực tế cụ thể trong thiền môn mà viết thành qua mỗi chủ đề khác nhau. Mỗi chủ đề tuy có khác, nhưng những nhân vật trong cốt chuyện trước sau đều có sự hoạt động liên tục. Qua mỗi câu chuyện, chúng tôi cố gắng diễn tả theo từng tâm trạng và hoàn cảnh của mỗi nhân vật hay thường xảy ra trong chốn thiền môn.
16/06/2014(Xem: 6847)
Tập sách nhỏ nầy chúng tôi ghi lại những ngày lang thang rày đây mai đó trên đất Mỹ. Đây là chuyến đi Mỹ lần đầu tiên của chúng tôi. Như những chuyến đi lần trước mà chúng tôi đã có dịp đi qua các nước: Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, cứ mỗi chuyến đi tôi đều có ghi chép lại những gì đã xảy ra trong suốt cuộc hành trình. Lần nầy cũng vậy. Tôi cũng muốn ghi lại những việc xảy ra từng ngày. Đến đâu, ở đâu, làm gì ... tất cả, chúng tôi đều có ghi lại đầy đủ. Do đó, quyển sách nầy với hình thức giống như là một quyển nhật ký hay ký sự hơn là quyển sách mang tính chất nghiên cứu. Trong sự ghi chép đó, nơi nào có liên quan đến những địa danh mà chúng tôi tới viếng thăm, chúng tôi đều có sưu tầm một số ít tài liệu để dẫn chứng. Tôi nghĩ rằng, chuyến đi nào cũng có ít nhiều kỷ niệm vui buồn. Cuộc đời tương đối không sao tránh khỏi. Mục đích của chúng tôi là muốn lưu lại một vài hình ảnh kỷ niệm thân thương qua những nơi mà đoàn chúng tôi đã đến.
10/06/2014(Xem: 8100)
Hai dì vãi chùa tôi tuổi đời đều đã trên 70. Về sự kính Ôn, trọng thầy, thương chú và đùm bọc điệu hai dì như nhau. Về sự siêng năng, chịu khó, tiết kiệm, giữ của cho chùa hai dì bằng nhau. Về vóc hình nhỏ nhắn hai dì giống nhau. Về chiều cao khiêm tốn hai dì ngang nhau. Thời Ôn (cố) còn sống, có mụ nhà quê lâu lâu mới lên thành phố tìm đến viếng chùa rồi gặp Ôn trú trì, sau khi đảnh lễ, mụ nói một câu tỉnh rụi về hai dì vãi chùa tôi: Ôn có “cặp sanh đôi” trông vui mắt, hí.
04/05/2014(Xem: 16296)
Hằng năm tại Thụy Sĩ nói riêng, Âu Châu nói chung, nhằm vào lễ Phục Sinh được nghỉ 4 ngày liên tiếp từ thứ 6 đến thứ 2, thiên hạ thường nô nức mua sắm, du lịch hay tiệc tùng ăn nhậu..v.v..và..v.v.. để đền bù và thưởng thức cuộc sống cho bõ những ngày tháng làm việc mệt nhọc mà họ cho là "đi cày" vất vả.
15/04/2014(Xem: 4982)
Thiên tình sử Truyện Hoa Lan không biết đã cướp mất bao nhiêu thì giờ quí báu của các bạn, chứ riêng tôi bị mất nhiều công sức lắm. Chẳng là Mỗi tuổi nó đuổi xuân đi, đuổi nhanh đến độ mỗi sáng tôi phải ngồi nhổ tóc bạc đến mỏi cả tay, đến mờ con mắt mà vẫn chưa xong.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]