Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Mộ sâu

22/03/201114:25(Xem: 2920)
12. Mộ sâu

BÓNG THỜI GIAN
Tác giả: Diệu Kim

MỘ SÂU

Em trai tôi chết trẻ, lúc 26 tuổi, nằm trong nghĩa trang chùa làng. Cả gia đình sau này lên thành phố sinh sống, bỏ em nằm bơ vơ gần chục năm. Ngày thanh minh, ngày tết, mấy ông anh họ từ Vĩnh Long lên làm cỏ mộ, đốt cho em vài xấp tiền và bộ đồ bằng giấy, không đến nỗi lạnh lẽo. Nhưng rồi má tôi và mấy anh chị em trong nhà quyết định bốc mộ em, đưa tro cốt về chùa gần nhà, để em khỏi thui thủi ngoài đồng hiu quạnh với giun dế cỏ cây.

Tôi đón xe hơn trăm cây số về quê, đúng vào tháng 3 thanh minh, trong tiết xuân nắng tràn cả đất phương Nam.

Từ mờ sáng, ông anh họ thứ năm đã lấy honda chạy vô Xẻo Trầu chở ra một người đàn ông chuyên nghề bốc mộ. Mọi người điểm tâm trước khi lên đường. Người đàn ông ngồi ở một góc đi-văng, im lặng nhai bánh mì, không nói chuyện với ai. Đầu ông ta húi cua ngắn đến mức gần như cạo trọc, và sùm sụp chiếc nón vải, chỉ lột ra một lần khi mới bước vô chào chủ nhà, là bà dì của tôi.

Ông ta ăn chậm rãi, tay khuấy nhẹ ly cà phê đá bên cạnh, đôi mắt nhìn trân trân vô bức tường trước mặt như thể đang có cái gì đó thu hút. Hai con mắt to, bất động. Ông anh họ thứ chín khều ông anh thứ ba: “Nhìn ông này sao tui ớn ớn!” Anh Ba gật đầu, nhưng phá tan không khí bằng một câu làm quen: “Anh thứ mấy vậy anh?” Người đàn ông quay lại: “Tôi thứ Bảy.” “Ờ, anh Bảy. Thôi, mình lên đường được rồi đó.” Người đàn ông đứng dậy cầm cái xà beng và cái leng đào đất, toàn bộ đồ nghề của ông ta chỉ có bấy nhiêu.

Chúng tôi vạch cỏ mà đi, cỏ lút gần tới đầu, cỏ tràn lên những nấm mộ hoang không ai thăm viếng. Những bờ trâm bầu ngày xưa xa tít tắp, giờ như gần lại vì mộ đã ken dày, không còn khoảng đất nào trống. Em tôi nằm đối diện một tấm bia đá mang tên chính cô bạn gái của em ngày mới lớn. Tôi ngậm ngùi nhìn “hai đứa nhỏ” khi sống có nhau và khi chết vô tình cũng có nhau. Một sự vô tình của định mệnh!

Ông Bảy bắt đầu động thổ sau thời kinh bát nhã của thầy trong chùa. Những nhát xà beng dộng ầm ầm vào nền xi măng, cắt đứt luôn những thanh sắt đổ bê-tông rắn chắc. Lúc này, ông hoàn toàn khác hẳn, nhanh nhẹn, mạnh mẽ, gương mặt giãn ra, hồng hào. Anh Ba tôi rót cho ông ly nước, đưa đến tận miệng, ông uống xong, mỉm cười cám ơn. Ông nói: “Thằng thợ nào làm ngôi mộ này ẩu thiệt, nhờ vậy mình đập mau.” Ông anh họ thứ Hai của tôi nhảy vô kéo tiếp cái vỉ sắt, lật qua một bên, để lộ hẳn nền cát bên dưới. Ông Bảy thở hắt ra: “Ối, chút xíu nữa là xong. Đào mấy lớp leng là tới liền.” Ông thẳng tay ấn chiếc leng xuống, mồ hôi ướt đẫm chiếc áo thun màu xanh dương cũ mèm.

Đất dần chuyển sang màu bùn đen và ngập nước. Một miếng ván nâu mục nát lẫn vào đầu leng. Ông Bảy kêu lên: “Rồi, tới rồi!” Anh em tôi xúm nhau ngó vào miệng hố rộng. Ông nói: “Rót cho tôi ly rượu.” Ông ực một hơi, rồi đổ nửa ly còn lại xuống bùn: “Uống đi Dũng! Bữa nay về chùa ở nghen. Trong chùa đông vui lắm mầy ơi, có nhiều cô đẹp lắm!” Tôi đang bùi ngùi trong dạ, nghe tới đó liền nạt: “Vô chùa mà nói chuyện bậy bạ!” Anh Chín tôi thì phá lên cười: “Ổng nói đúng chớ bộ. Tao thấy trong chùa có hình mấy cô đẹp thiệt.” Nếu Dũng còn sống thì giờ nó bằng đúng tuổi anh Chín, bốn mươi hai. Ngày xưa, hai anh em đi đâu cũng có nhau, khi tát mương, khi xúc cá, khi coi hát, lúc ghẹo con gái, lúc có bồ... Anh Chín cười khà khà như thằng Dũng đang đứng trước mặt anh: “Mà vô chùa không có nhậu được mầy ơi! Cũng không đánh tiến lên được. Chịu nổi hông mậy?” Ông anh thứ Hai tôi tiếp lời: “Cũng phải ráng Dũng à! Lớn tuổi rồi, phải lo nghe kinh kệ chớ chơi hoài sao!” Ông Bảy quăng ly rượu lên bờ: “Rồi nghen Dũng. Bắt đầu lên đường!” Và ông đục một nhát thật mạnh.

Tất cả quần áo, mùng mền tẩn liệm được móc ra hết, sau cùng mới đến cái bọc nylon quấn xác em tôi. Ông Bảy lôi cái bọc ra, mừng rỡ: “Trời, không có nó thì mò từng miếng xương mệt lắm đa!” Anh Hai tôi kéo một đầu bọc, đưa hẳn lên bờ cỏ. Ông Bảy phóng khỏi miệng hố, bắt đầu mở bọc. Một dáng người dài chỉ trơ lại những xương, còn thịt da đã hóa bùn, không hôi tanh gì cả.

Ông Bảy cẩn thận gỡ từng đốt xương bỏ vào cái thau nhôm mới mua sáng trưng. Anh Hai tôi nói: “Ráng kiếm cho được tượng Phật bằng ngà hôm đó chính tay tôi đã bỏ vào miệng nó.” Ông Bảy thò tay vào lớp thịt bùn, mò thật kỹ. Ông nhẹ nhàng chắt bớt nước trong bọc ra, vừa chắt vừa lấy tay gạn lại không cho bất cứ vật rắn nào rớt xuống. Nhưng mãi vẫn không thấy tượng Phật. Ông lại tiếp tục bươi bùn, nhất định kiếm cho bằng được. Tôi choáng người vì nắng, nên nói: “Thôi, rớt đâu đó chớ gì, đừng tìm nữa.” Nghe vậy ông Bảy mới chịu quẳng cái bọc xuống hố và quay sang rửa đống xương đang đựng trong thau.

Chúng tôi bắt chước những người dân nơi đây, đổ 20 lít cồn vào thau để thiêu tại chỗ. Cồn bốc cháy, không có mùi hôi vì xương cốt đã mục. Anh em tôi chui vào bóng cây trứng cá gần nhà một thằng bạn hồi thơ ấu của Dũng, tên Uôl, giờ đang ở đậu đất chùa, làm rẫy nuôi vợ con. Uôl rất bất ngờ khi biết mình đã “ở cạnh” Dũng mười mấy năm mà không hề hay biết. Uôl lăng xăng bưng cái thau xương đặt ngay ngắn trên bờ cỏ, rồi tự tay đổ cồn vào, tự tay châm lửa, không cho ai rớ vô. Uôl thì thầm: “Dũng ơi, phải chi tao biết mầy nằm ở nghĩa trang này thì tao ra thăm mầy hoài. Bữa nào tao cũng tưới rẫy vòng vòng đây nè. Bà mẹ nó, vậy mà mầy hổng về báo cho tao biết!”

Ngọn lửa bốc cao, rồi chấp chới theo những cơn gió đồng xao xác. Uôl phủi tay: “Rồi, vô nhậu mầy ơi! Lo mẹ gì nữa, đời có nhiêu đó thôi!”

Ông Bảy đã tranh thủ lặn xuống sông tắm một hơi, áo quần ướt sũng nhưng sạch hết lớp bùn đất. Ông ngắt mấy tàu lá chuối trải xuống cỏ, và bày chai rượu lên. Bộ tam sên cúng mộ hồi nãy được ưu tiên dành cho ông, thêm dĩa bánh và trái cây. Mấy ông anh tôi không nhậu, chỉ có Uôl ngồi đối ẩm cùng ông. Ông ực một ly đầy, gắp con tôm bỏ vào miệng nhai rau ráu. Uôl cũng không vừa, anh ta theo ông Bảy sát nút. Chưa đầy 15 phút mà cái chai nửa lít đã cạn queo. Ông Bảy lôi ra một chai khác. Và hai người bắt đầu uống chậm lại.

Anh Hai tôi ngồi buồn, bắt chuyện: “Anh Bảy làm nghề này lâu chưa?” Ông Bảy gục gặc đầu: “Cũng mười mấy năm rồi.” “Sao anh lại chọn làm vậy? Hồi trước chắc anh theo nghề khác?” Ông ngước nhìn anh Hai tôi, đôi mắt lộ to, e dè: “Thì... nghèo quá, biết nghề nào nữa... Hồi trước hả? Thôi, hỏi chi.” Nhìn vẻ mặt của ông, tôi đâm ra tò mò. Tôi bèn hỏi tới: “Thì anh cứ nói, có gì đâu mà giấu.” Ông gãi đầu, lúc này trông ông như một đứa trẻ sợ bị la vì đã phạm một cái lỗi nào đó. “Thôi, quên đi...”

Thấy vậy, tôi không hỏi nữa, ngoảnh mặt ra hướng cái thau đang ngùn ngụt lửa. Nhưng rồi ông Bảy lại tự động lên tiếng: “Cô hỏi thì tôi... nói thiệt. Hồi đó tôi lên xe xuống ngựa sướng lắm. Bây giờ... tuột dốc, nên không muốn nhắc tới.” Ông cúi đầu. Hai con mắt to cụp xuống theo, và cái vẻ ngượng nghịu hiền lành của ông làm tôi thêm bất ngờ. Tôi dịu giọng: “Nhắc có sao đâu anh. Ai không có lúc vầy lúc khác.” “Nhưng đời tôi tới đây coi như hết mức rồi. Nói thiệt, hồi đó tôi đi lính quốc gia, là thượng sĩ, tiểu đội trưởng, bị đẩy ra trận suốt cho tới ngày giải phóng.”

Hèn chi, ông sợ, không dám “khai báo lý lịch” chớ gì. Như hiểu được ý tôi, ông vội nói: “Nhưng tôi không bị đi học tập cải tạo, vì lúc ra trình diện gặp toàn ‘người quen’. Mấy anh em bên kia đâu lạ gì tôi, bởi mỗi lần có lệnh đi càn tôi đều vái Trời vái Phật rằng: “Xin cho hai bên tụi con hổng có ai bắn trúng ai, cũng không ai thua, ai thắng. Cứ nổ súng một hồi rồi mạnh ai nấy rút. Chớ lính con chết cũng tội nghiệp, mà bên kia chết cũng tội nghiệp.” Vái xong, tôi lén lén kiếm đường tới báo tin cho mấy ảnh. Thành ra, mấy ảnh quen mặt luôn. Trời Phật linh thiệt, lính của tôi không chết không bị thương thằng nào cả.”

Anh Chín tôi lại phá lên cười: “Cha nội ơi, cha vái như vậy hèn chi hai bên đánh nhau hoài. Phải có bên thắng bên thua thì chiến tranh mới mau kết thúc chớ!” Ông Bảy biết anh Chín chọc ghẹo, nên cười toét cái miệng rộng: “Ờ há! Thôi dô dô, một ly nữa coi, bây giờ hòa bình rồi đó!” Câu chuyện mỗi lúc mỗi thân thiện, mấy ông anh tôi ngồi xít lại mâm rượu, lột dép kê cho đỡ mỏi.

Ông Bảy lột cái nón vải quăng xuống cỏ, xoa xoa mái đầu đã điểm bạc. “Hòa bình rồi tôi cũng còn vàng nhiều lắm nghen, bán hết để lên tàu vượt biên. Nhưng giờ chót nghĩ thương vợ con, đi không đành, xách đồ quay lại. Tới nhà, thì vợ tôi đã cuốn gói về quê, bỏ lại lá thư chia tay, nói rằng do tôi văn hóa thấp, không hợp nhau nữa. Thì đúng vợ tôi trước kia con nhà ăn học, nhưng sao lấy tôi có mấy mặt con rồi mới lên tiếng chê? Tôi buồn quá, ừ thôi bả chê mình, mình nên để bả tự do. Tôi trôi dạt xứ khác làm ăn, tới đất Nha Mân này thì trụ lại, rồi theo bạn bè làm cái nghề bốc mộ, cũng đủ sống qua ngày.”

Tôi hỏi: “Anh có về thăm vợ con không?” “Mấy năm trước thì có. Mỗi lần về Mỹ Tho, tôi phải “ăn-tây-ni” đàng hoàng, bỏ áo vô quần tử tế, vì mấy đứa con trai tôi bây giờ đều là chủ doanh nghiệp. Tụi nó hỏi, tôi đâu dám nói thiệt đang làm nghề gì, chỉ nói là làm công cho người ta. Ở chơi mấy ngày, thấy đứa nào cũng lu bu, nào họp hành, nào cơ quan, nên mấy năm nay tôi không về thăm tụi nó nữa.” “Tụi nó có cho tiền anh xài không?” “Trời, tiền xe còn hổng có. Nó chỉ bày mâm cho nhậu thôi, giống y bạn bè. Mà mình đi thăm con đâu phải để xin tiền hả cô?” Tôi thở dài: “Nhưng dù sao nó cũng nên cho anh chút đỉnh tiền xe chớ.” Ông Bảy lại gãi đầu: “Thiệt tình mỗi lần đi tôi phải dành dụm tiền xe rồi chút đỉnh quà cáp cho cháu nội, cũng... hơi mệt. Mà thôi cô ơi, tôi không có buồn gì hết, trái lại còn hãnh diện nữa. Vì thấy con mình khỏe mạnh, thằng nào cũng cao to, vạm vỡ, là cái phước thứ nhứt. Con mình lại có công ăn việc làm, đóng góp cho xã hội, là cái phước thứ hai. Riêng mình, cũng tự sống được bằng hai bàn tay chân chính, không trộm cắp, làm bậy, là cái phước thứ ba. Lâu lâu, gặp nhà nào quá nghèo, tôi bốc mộ giùm, không lấy tiền công, coi như một cách cám ơn Trời Phật cho tôi còn sống sót qua chiến tranh. Vậy đủ rồi. Than thở chi hả cô?”

Ông ực một ly rượu nữa, vói tay lấy miếng xoài sống chấm muối ớt bỏ vào miệng nhai rôm rốp. Uôl cũng cạn một ly: “Ờ, anh còn khỏe lắm, còn làm ăn lâu dài mà. Ủa, mà nhiêu tuổi rồi vậy?” “Sáu mươi ba.” Hả? Cả Uôl lẫn mấy anh em tôi đồng loạt kêu lên. Trông ông chỉ chừng hơn năm mươi. Ông lại cười khì khì, và móc tiếp một chai nửa lít khác. Chỉ hai người mà “chơi” hết lít rưỡi đế trắng.

Lát sau, ông loạng choạng đứng dậy: “Thôi, đáng lẽ ngồi đây tiễn đưa thằng Dũng cho tới phút cuối, nhưng mệt quá, mai còn đi bốc hai mộ nữa. Tôi về nghen. Dũng, vô chùa ở cho vui nha mậy, có anh chị em đưa đi như vầy còn đòi gì nữa.” Ông lại trùm cái nón lên đầu, sùm sụp, che gần hết đôi mắt to thô lố nhưng cái miệng thì lại cười rất tươi.

Tro cốt của em, tôi đã đưa vào chùa. Mấy ông anh tôi hài lòng khi thấy ngôi chùa trang nghiêm, thoáng mát. Chỉ có điều, ai nấy vẫn thắc mắc về cái tượng Phật, tại sao tìm mãi không ra. Tôi thì nghĩ rằng, tượng Phật đã chìm vào đáy mộ sâu, đã tan vào đất, vào trùng trùng của cõi nhân sinh.

Tìm làm gì, chỉ cần bốc lên một nắm đất là đã thấy Phật trong tay.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/11/2018(Xem: 3997)
Như một cơn lốc bất thường giữa thời tiết êm ả, người phụ nữ ấy sộc vào cái giang sơn tiêu điều của tôi vào một buổi tối oi bức. Chị ta mang theo cả một trời hương hoa sực nức, loại mùi thơm trưởng giả chưa từng xuất hiện trong căn nhà đơn sơ mà mẹ và chị em chúng tôi đang trú ẩn với tinh thần sống thiểu dục tri túc. Vì vậy, cảm giác đầu tiên của tôi là sự khó chịu. Y như mình đang thả hồn thưởng thức những cái giai điệu réo rắt ngọt ngào của đàn tranh, sáo trúc, mà lại có người khác bật máy móc hiện đại cho ầm vang lên những âm thanh cuồng nộ của loại nhạc tân thời rock, rap bên tai.
06/11/2018(Xem: 3582)
Những năm cuối của thế kỷ 20, “Bến Xe Ngựa” ngay trước nhà tôi đã di dời vào “Bến Xe Lam” gần chợ từ lâu, trả lại một con đường bị chiếm dụng sau nhiều năm tháng đầy kỷ niệm tuổi ấu thơ của tôi, và lũ con nít xóm Chùa.
05/11/2018(Xem: 3972)
Tôi và chị chưa hề một lần gây thù chuốc oán với nhau. Vậy mà không hiểu sao ngay từ ngày chạm mặt đầu tiên ở trụ sở Hội Văn Học Nghệ Thuật Tỉnh, bỗng dưng tôi thấy ghét chị thậm tệ. Và nhìn ánh mắt, vầng trán nhăn nhíu, điệu bộ của chị khi đứng gần tôi vào lúc cuộc họp chuẩn bị khai mạc, tôi cảm nhận, thấy biết được chắc chắn rằng chị cũng chẳng ưa gì tôi, có thể là ghét cay ghét đắng tôi, còn hơn cái mức mà tôi ghét chị.
04/11/2018(Xem: 4600)
Có bao giờ bạn nghĩ đời sống vợ chồng cũng là một nghề không? Chắc chắn mọi người đều nghĩ vợ chồng là chuyện tình cảm yêu đương, cớ sao lại gọi là một nghề?... Vào ngày 7 tháng 1 năm 2008, có một người Mỹ gốc Việt, 38 tuổi đã ném bốn đứa con nhỏ từ bốn tháng đến ba tuổi trên một chiếc cầu tại tiểu bang Alabama, Hoa Kỳ. Theo tin tức thì hai vợ chồng anh thường cãi nhau suốt ngày, hầu như không ngày nào mà hàng xóm không nghe vợ chồng anh to tiếng mắng chửi nhau. Ngoài việc xung đột, bất đồng ý kiến với vợ, anh còn uống rượu và xài thuốc kích thích, nên không kiềm chế nổi cơn sân. Vào ngày nói trên, sau khi cãi nhau với vợ, anh xách bốn đứa con lên xe và đem ra cầu liệng xuống sông, sau đó cảnh sát đã tìm ðược xác của bốn đứa trẻ này. Khi ra tòa anh ðã thú tội và nhận án tử hình.
03/11/2018(Xem: 7727)
Mười câu chuyện sức mạnh của chân thật và nguyện cầu chân lý Trích từ Tiểu Bộ Kinh Nikàya thay-tro Tâm Tịnh cẩn tập Chuyện tiền thân số 422 của Tiểu Bộ Kinh kể rằng trong thời tối sơ, con người sống thọ đến một A tăng kỳ. Tương truyền đó là thời mọi người trên thế gian đều nói thật, người ta không biết từ "nói dối" nghĩa là gì cả. Một hôm, Vua ban chiếu chỉ cho các thần dân tập trung trước sân chầu để nghe Vua nói dối. Mọi người đều ngơ ngác và hỏi, “Nói dối là gì? Nói dối là vật gì? Có màu gì? Màu xanh, hay màu đỏ”. Thời đó, con người có sắc thân rất tuyệt mỹ, toát ra mùi thơm của hoa chiên đàn, miệng có mùi thơm của hoa sen, là nhờ quả hành nghiệp chân thật, nói lời chân thật trong tiền kiếp.
02/11/2018(Xem: 3105)
Cả đám bảy, tám đứa tuổi choai choai đang quây quần nhậu nhẹt hò hét, làm huyên náo cả cái thôn vắng vẻ nằm ven biển. Những nhà ở gần đó không ai nghỉ ngơi, chợp mắt ngủ trưa được sau một buổi quần quật với công việc làm. Không ai dám hé môi động răng lên tiếng trước cái đám “quỷ sống” nổi tiếng là “quậy tới bến” này, dù là lên tiếng van lơn năn nỉ chứ không phải răn đe khuyên bảo…
01/11/2018(Xem: 3513)
Thạch đến chơi nhà tôi thường xuyên vào mỗi buổi chiều. Nói là chơi, thật thì lúc nào Thạch cũng đem bài vở đến cùng học và trao đổi ý kiến, chỉ khi xong xuôi bài vở mới ngồi tán gẫu với nhau. Mẹ tôi rất thương Thạch, bà yên tâm khi tôi kết bạn với một người hiếu học, hiền lành, lễ phép. Mẹ tôi cũng đã từng nghe mấy đứa bạn khác của tôi nói bóng nói gió có ý cặp đôi Thạch với tôi, nhưng bà bỏ ngoài tai, vì bà tin Thạch, cũng như tin con gái út của bà. Chỉ có một lần, không có Thạch, bà nhắc nhở tôi: “Con cứ theo thằng Thạch mà học như nó, đừng có ham chơi và giữ gìn đức hạnh thì có ngày con sẽ gặt hái những gì tốt đẹp nhất mà mình mong muốn!”
01/11/2018(Xem: 3394)
Nước Nga Bây Giờ Thích Như Điển Sau 25 năm, tôi đến lại nước Nga để thăm viếng lần nầy là lần thứ 6. Lần đầu vào năm 1994, nghĩa là mới chỉ sau 3 năm khi Liên bang các nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết bị sụp đổ; Liên bang Nga - một hình thức nhà nước mới được ra đời, nơi mà đảng Cộng sản không đóng vai trò độc tôn trong xã hội nữa. Những tưởng rằng, thành trì của phe xã hội chủ nghĩa ấy vẫn vững như bàn thạch, nhưng ngờ đâu, sau hơn 73 năm (1917-1991) tồn tại đã sụp đổ hoàn toàn bởi cuộc cách mạng dân chủ Nga do Yelsin, Tổng thống Nga chủ trương.
28/10/2018(Xem: 3752)
Diễm và Liễn lấy nhau được đúng 5 năm, chưa có con, biến cố 30-04-75 đến, chồng Diễm khăn gói vào tù, lúc đó nàng vừa 23 tuổi. Ở nhà chỉ còn nàng và cụ Định 70 tuổi, thân phụ Liễn. Trước đây, cả nhà ba người chỉ sinh sống bằng đồng lương hạn hẹp, ít ỏi của Liễn. Nhờ Diễm biết tằn tiện, quán xuyến, lại không phải hạng người ham vật chất, đua đòi nên cuộc sống gia đình nàng tạm đủ. Đủ theo cái nghĩa biết đủ thì nó đủ. Nhờ thế, mái ấm gia đình nàng êm đềm hạnh phúc dù vắng bóng tiếng trẻ thơ.
24/10/2018(Xem: 3458)
Ký túc xá Trường Cao Đẳng Sư Phạm không phải tồi. Thậm chí còn rất khang trang so với nhiều ký túc xác khác. Từ đây lội bộ ra bãi biển thơ mộng chỉ chừng trăm mét, tha hồ mà hóng gió trong lành. Ấy nhưng, cuộc sống ở ký túc xá quá phức tạp, ồn ào dường như không chịu ngơi nghỉ, lại thường xảy ra những vụ cầm nhầm lấy lộn không chịu trả… Tôi và Hương, Lý, Thanh họp bàn với nhau, quyết định chung tiền tìm nhà trọ ở ghép ở riêng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]