Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

27. Ba mươi thanh niên xuất gia

21/03/201103:50(Xem: 5635)
27. Ba mươi thanh niên xuất gia

TRUYỆN PHẬT THÍCH-CA
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

HỒI THỨ NHÌ

27. BA MƯƠI THANH NIÊN XUẤT GIA

Đức Phật đi về hướng Ma-kiệt-đà được một quãng xa, ghé vào khu rừng kia và ngồi nghỉ dưới một cội cây. Khi ấy có ba mươi người thanh niên chạy vào rừng.

Những người ấy dáng vẻ hớt hải, mất cả bình tĩnh, cặp mắt láo liên, khi đi chẳng nhìn trên đường mà luôn ngoảnh nhìn quanh quất như đang tìm kiếm một điều gì.

Đến chỗ đức Phật, một người hỏi:

“Ngài có thấy một người đàn bà đi qua đây chăng?”

Đức Phật đáp:

“Ta không thấy. Vì sao mà các ngươi lại đi tìm người đàn bà ấy?”

Mấy chàng thanh niên đáp:

“Chúng tôi ở trong thành Ba-la-nại, hôm nay rủ nhau vào rừng chơi, có dẫn theo một cô gái để giúp vui. Vừa rồi ăn uống xong cùng nhau nghỉ trưa trong rừng, chẳng ngờ thừa lúc vắng vẻ cô ấy trốn đi và trộm đồ của chúng tôi rất nhiều, nên chúng tôi đi tìm bắt lại.”

Đức Phật liền hỏi:

“Này các ngươi! Hãy nghĩ lại xem lúc này nên đi tìm cô gái ấy hay nên đi tìm lấy chính mình?”

Nghe câu hỏi lạ lùng, các thanh niên ấy đều lấy làm ngạc nhiên. Họ cùng nhìn lại vị sa-môn đang nói chuyện với mình và bấy giờ mới nhận ra thần thái uy nghi, dung mạo sáng rỡ khác thường của ngài. Cả bọn cùng nín lặng, suy nghĩ hồi lâu. Bỗng họ chợt hiểu ra câu hỏi của ngài. Một người lên tiếng nói:

“Thưa ngài, giờ thì chúng con nghĩ là nên tìm lại chính mình.”

Đức Phật biết những thanh niên này đã đủ sự hiểu biết để có thể được tiếp độ. Ngài liền dạy cho họ biết rằng hạnh phúc chỉ có thể tìm thấy ngay trong giây phút hiện tại của một đời sống chân chánh và tỉnh thức. Khi con người để cho những lo lắng, buồn phiền, giận dữ hoặc vui mừng chiếm lấy tâm trí mình, họ không còn tỉnh thức nữa và sẽ bị cuốn trôi về quá khứ hoặc tương lai, không thể cảm nhận được cuộc sống chung quanh đúng như thật nữa. Hay nói cách khác, họ đã đánh mất chính mình.

Những chàng thanh niên hiểu thấu được những lời Phật dạy, và họ soi xét lại hoàn cảnh mới rồi của họ, quả thật là họ đã để mất chính mình. Quá sức vui mừng vì được hiểu ra những điều xưa nay chưa từng biết đến, họ hết lời ca ngợi, xưng tán Phật.

Một người định thổi sáo để tỏ lòng vui mừng và biết ơn Phật, nhưng khi lấy ống sáo ra, không hiểu sao anh ta lại đưa đến mời Phật thổi trước.

Những người khác lấy làm ngạc nhiên, không hiểu sao anh chàng này lại làm như thế. Tuy nhiên, thật bất ngờ là đức Phật nhận lấy ống sáo và đưa lên miệng thổi.

Đức Phật thổi sáo với sự tỉnh thức của bậc giác ngộ, nên tiếng sáo như hòa làm một với tâm hồn bao la, trong sáng của ngài. Nó vang lên vi vút kỳ diệu, vọng thấu trên mây cao và làm rung động hết thảy những chim chóc trong rừng cho đến những loài muông thú. Mấy chàng trai đều lặng người đứng nghe, cho đến khi ngài đã ngừng thổi mà họ nghe như tiếng sáo vẫn còn văng vẳng mơ hồ đâu đó... Quả thật họ chưa từng được nghe ai thổi sáo tuyệt diệu đến mức đó.

Các chàng trai liền thưa hỏi Phật về nghệ thuật thổi sáo.

Đức Phật đáp rằng:

“Người thổi sáo phải biết tập trung hoàn toàn vào tiếng sáo, không còn bị chi phối bởi bất cứ ngoại cảnh nào chung quanh nữa. Được như vậy thì tự nhiên sẽ đạt được đến chỗ cao diệu nhất trong nghệ thuật.”

Ngài cũng nói tiếp rằng:

“Không riêng gì trong việc thổi sáo, mà nếu người nào biết sống một cách tỉnh thức, thường xuyên kiểm soát tư tưởng của mình hướng theo con đường chân chính, người ấy sẽ có thể dễ dàng đạt đến một cuộc sống an lạc, thanh thản ngay trong hiện tại.”

Sau đó, Phật giảng cho những thanh niên này nghe về Bát chánh đạo. Tất cả đều lấy làm hân hoan, liền xin được xuất gia theo Phật.

Phật nhận lời cho cả 30 chàng thanh niên này xuất gia. Nhưng ngài cho biết là ngài đang trên đường đi đến Ưu-lầu-tần-loa, nên bảo bọn họ hãy trở lại khu vườn Lộc Uyển để gặp ông Kiều-trần-như và sẽ được hướng dẫn tu học.

Và Phật tiếp tục lên đường đến Ưu-lầu-tần-loa để từ đó đi qua thành Vương-xá, xứ Ma-kiệt đà.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4639)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43764)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4372)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4319)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4219)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6340)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4611)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4023)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 24920)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 23989)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]