Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

8. Tôn giả Mục-kiền-liên

09/03/201108:46(Xem: 6614)
8. Tôn giả Mục-kiền-liên

TRUYỆN TÍCH VU LAN PHẬT GIÁO
Minh Châu sưu tầm, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

Tôn giả Mục-kiền-liên

Trích Phật và Thánh chúng

của Thích Minh Tuệ


Trong mười đại đệ tử của Phật, ngài Mục-kiền-liên là vị thần thông số một. Trong mọi tình huống, ngài Mục-kiền-liên thường hay sử dụng phép thần thông. Khi đi truyền giáo ngài Mục-kiền-liên dễ dàng chinh phục được người. Nhưng pháp căn bản của sự giải thoát không phải là thần thông. Với nghiệp lực của con người, thần thông không thể giải cứu. Với phép thần thông có thể khuất phục người được dễ dàng, nhưng chưa hẳn lòng người đã dứt sự oán giận.

Dù từng bị Phật quở trách, nhưng ngài Mục-kiền-liên vẫn sử dụng phép thần thông để làm phương tiện. Ngày vua Lưu Ly kéo quân đội đến vây hãm thành Ca-tỳ-la-vệ, Mục-kiền-liên đã dùng thần thông đến cứu dòng họ Thích Ca khỏi bị bức hại, nhưng thành Ca-tỳ-la-vệ vẫn bị hỏa thiêu. Ngài Mục-kiền-liên cũng không cứu được mẹ bằng phép thần thông. Ngay chính bản thân ngài cũng không thắng được nghiệp báo để thoát chết bởi bọn ngoại đạo, khi đến truyền đạo ở thành Thất-la-phiệt.

Một hôm, trên đường đi khất thực, ngài Mục-kiền-liên dừng chân trước một nhà bán bánh ít trần, thứ bánh ngọt mà không bọc lá. Thấy bà chủ quán không đem vật thực ra cúng dường, đoán biết bà này có tâm keo kiệt, ngài Mục-kiền-liên cố tình đứng lại chờ đợi, để tạo điều kiện cho bà này gieo công đức.

Không những không cúng dường, bà còn xua đuổi tôn giả. Bà nói:

– Làm gì mà sáng sớm ông đến đứng ám nhà tôi thế? Ông có biết rằng tôi chưa bán được gì cả chăng? Xin mời ông đi mau cho để sáng sớm tôi khỏi mất hên.

Ngài Mục-kiền-liên năn nỉ:

– Xin bà cho tôi một nắm cơm, nếu không bà cho tôi một cái bánh cũng được.

Bà già nói:

– Tôi nghèo lắm ông ơi! Ông không thấy nhà tôi đang xiêu vẹo sau trận cuồng phong chưa sửa được đấy à! Còn cái bánh, tôi đã bảo bánh chưa chín mà, ông này lẩn thẩn thật.

Muốn cho bà già sinh khởi thiện tâm, ngài Mục-kiền-liên nói:

– Nếu bà không cho, tôi sẽ đứng đây hóa phép làm gió thổi suốt ngày.

Bà già vẫn không lay chuyển, nói:

– À! Thế ông biết làm phép ư? Nếu thật sự ông có thể biến hóa mà chết được, tôi sẽ cho.

Ngài Mục-kiền-liên liền rùng mình ba lần rồi lăn ra chết.

Thấy thây chết khiếp quá, nhưng vì tâm keo kiệt, bà già nói:

– Đã là xác chết còn ăn uống gì được mà cho. Giờ ông còn báo đời tôi phải chôn cất thây ma, thật đến khổ!

Ngài Mục-kiền-liên đứng dậy và nói:

– Giờ tôi là người bình thường ăn uống được, xin bà hãy đem vật thực cho tôi.

– Tôi đã bảo là tôi nghèo rớt mồng tơi mà, xin ông hãy đi gấp cho, để tôi còn lo sanh kế nữa chứ.

Ngài Mục-kiền-liên vẫn nằn nì:

– Nếu bà không cho bánh, tôi sẽ không đi khỏi đây.

Giận quá, nhưng thấy vị tỳ-kheo này biết biến hóa thần thông, bà già cũng có phần sợ sệt. Lúc ấy đang hấp bánh, bà mở vung muốn chọn một cái nhỏ nhất để cho, hầu khỏi rắc rối. Nhưng lúc này bà thấy cái bánh nào cũng lớn, cho thì thiệt hại cả vốn lẫn lời. Dù bánh đã được xoa dầu để khỏi dính nhau, nhưng bà càng xáo tìm cái bánh nhỏ nhất thì bánh càng dính chùm với nhau. Giận quá, bà khuân cả nồi để trước ngài Mục-kiền-liên và nói: “Ông hại tôi quá, làm bánh tôi dính chùm với nhau hết. Hỏng hết rồi, ông mang luôn cả nồi này về mà ăn cho thỏa.”

Thấy ý cho bánh trong sự tức giận, nhưng thiện tâm của bà già đã bắt đầu nhen nhúm, ngài Mục-kiền-liên lấy một cái bánh để vào bình bát, rồi tạ từ bà già và tiếp tục lên đường.

Một lần khác, nhân đi khất thực ngang qua một khu vườn rất nên thơ, ngài Mục-kiền-liên gặp một phụ nữ tuổi trung niên rất kiều diễm xinh đẹp. Bà này đón ngài Mục-kiền-liên lại và mời vào rừng nói chuyện. Biết chuyện chẳng lành, ngài chuẩn bị nếu có bị hại vì không chiều ý bà ta thì sẽ đem sức thần thông chống trả. Ngài Mục-kiền-liên từ chối và nói:

– Bà không nên đem sắc đẹp mê hoặc tôi, con người của bà bên ngoài vui tươi, ngọt ngào nhan sắc, nhưng chắc chắn lòng bà không khác một cuộn chỉ rối. Bà đang có một tâm sự uất nghẹn nên mượn sắc đẹp sẵn có để giết thời gian, hầu quên lãng tất cả. Xin lỗi, bà chớ phiền, nhưng tôi thẳng thắn khuyên bà không nên chơi với lửa, lội vào vũng sình, nguy hiểm lắm! Càng lao vào con đường trụy lạc, tâm hồn càng thêm dơ bẩn. Trong vũng bùn, bà càng cố vẫy vùng thì càng lún sâu, khó thoát khỏi tội lỗi. Thiện tâm của bà chưa hẳn đã mất, bà nên quay hướng chưa muộn lắm đâu.

Nghe nói đúng tâm trạng của mình, bà ta giật mình khóc sùi sụt và thưa:

– Thưa tôn giả! Tôi vẫn biết thế, nhưng không có con đường nào hơn. Tôi mượn lạc thú để quên hết uẩn khúc của cuộc đời, quên quá khứ đau thương.

Ngài Mục-kiền-liên bình thản khuyên:

– Thông thường, với những điều càng cố quên thì càng nhớ, càng nhớ lại càng thấy đau, càng đau thì lòng càng căm tức, càng căm tức lại có thể phát điên khùng. Lúc đó, hết biết phương cứu chữa. Ở đời có hai con người mạnh nhất. Một là người không có tội lỗi, hai là người có tội lỗi mà biết ăn năn sám hối. Thân thể, quần áo dơ bẩn dùng nước giặt rửa. Nước trên sông ô uế khi vào biển cả đều được lóng trong. Tâm hồn nhiễm đầy trần cấu, Phật pháp có năng lực làm cho trong sạch, thánh thiện. Nếu biết sám hối bà sẽ hết tội, tăng phước, trở nên con người gương mẫu.

Bà ta nói:

– Nhưng tội lỗi quá nhiều, sám hối bao giờ mới hết tội? Tôi đã mượn tiền tài và sắc đẹp làm lung lạc không biết bao nhiêu người đàn ông nhẹ dạ. Tôi đã phá tan hạnh phúc của nhiều gia đình, rồi tôi cũng bị người cùng phái nguyền rủa, có lần tôi suýt phải mất mạng. Ai ai cũng đều khinh ghét tôi!

Ngài Mục-kiền-liên nói:

– Với giáo pháp của đức Phật, khi nghe bà bộc lộ tâm hồn, tôi sẽ tăng thêm từ ái, không khinh ghét bà đâu.

Nghe thế, rất yên tâm, bà kể:

– Tôi là con của trưởng giả ở thành Ức-xoa-tỳ-la, tên là Liên Hoa Sắc. Lúc lên 16 tuổi tôi lấy chồng, chẳng may cha chồng chết sớm. Mẹ chồng tôi còn xinh đẹp và sinh lý còn cường thịnh, do đó bà khuynh đảo chồng tôi, phạm tội loạn luân. Quá buồn, tôi xin ly dị để lại cho chồng tôi một bé gái, rồi tôi đi lang thang như kẻ mất hồn. Vì buồn, tôi lại kết bạn với một chàng thương gia trẻ tuổi. Tôi ở nhà lo việc quản gia, chồng tôi lại đi đó đi đây để buôn bán. Làm ăn phát đạt, lắm tiền của lại sinh tật. Một chuyến đi buôn xa trở về, chồng tôi đem về một hầu thiếp son trẻ, cho ở nhà một người bạn hữu. Thường mượn cớ đến nhà bạn hàn huyên, chồng tôi ít ngủ ở nhà. Nghe bà con xì xầm, tôi nổi cơn ghen, quyết tìm cho bằng được và ăn thua đủ với con quỉ cái đã ám hại gia đình tôi. Không ngờ khi chạm mặt nhau, hầu thiếp của chồng tôi chính là con gái của tôi với người chồng trước.

Oan trái gì mà ghê thế! Mẹ chồng tôi lại đi cướp chồng của tôi. Rồi con tôi và tôi lại cùng chung một chồng. Xưng hô như thế nào cho phải đạo lý? Uẩn khúc như thế thì hỏi ai còn chịu đựng nổi?

Khi tỉnh lại, không giữ được thăng bằng của tâm hồn, tôi lại bỏ nhà ra đi, mượn những cuộc truy hoan đó đây đùa cợt cho quên sầu. Chuyện đời của tôi quá bi thảm, tôn giả có đủ năng lực để cứu vớt tôi chăng?

Nghe tâm sự não nùng của Liên Hoa Sắc, ngài Mục-kiền-liên liền đem thuyết duyên sanh, thiện ác, nghiệp báo, nhân quả, luân hồi giảng giải cho bà ta nghe.

Khi thấy Liên Hoa Sắc có thể hồi tâm, ngài Mục-kiền-liên liền hướng dẫn bà về bái yết đức Phật. Liên Hoa Sắc hết lòng sám hối, tinh tấn tu hành, chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán và có thần thông số một bên phái nữ. Trong khi ngài Mục-kiền-liên đã là bậc thần thông số một bên phái nam.

Trong hàng thánh chúng, ngài Mục-kiền-liên không những là vị thần thông số một, bản tánh rất năng động mà còn là một vị có hiếu đạo hơn hết. Một hôm, nhớ mẹ, Mục-kiền-liên vận dụng thần thông đi khắp mọi nơi để tìm mẹ. Khi vào địa ngục, Mục-kiền-liên thấy mẹ không chỉ ở chốn địa ngục, mà còn đói khủng khiếp, cơ thể vô cùng gầy yếu. Để phục hồi sức lực cho mẹ là bà Thanh-đề, Mục-kiền-liên mang cơm dâng cho mẹ. Mừng quá, bà Thanh-đề dùng tay trái che bát để cho tù nhân khác không thấy thức ăn, tay phải bốc cơm đưa vào miệng. Nhưng than ôi! Cơm hóa thành than đỏ, bà không thể nào ăn được. Mục-kiền-liên rơi nước mắt, lòng buồn vô tận! Ngài vận đủ mọi phương tiện để cứu mẹ, nhưng vẫn không có kết quả.

Ngài trở về bạch Phật sự tình và hỏi lý do. Đức Phật từ bi dạy rằng:

– Này Mục-kiền-liên, lúc sanh tiền mẹ ông đã hủy Phật báng Tăng, không tin nhân quả luân hồi, lại rất bỏn xẻn, chẳng bao giờ bố thí cho ai, kể cả bố thí cho con kiến hạt gạo. Vì thế, sau khi chết bà phải chịu quả báo như thế. Ông tuy là con người hiếu đạo, thương cha nhớ mẹ, muốn đền đáp thâm ân, nhưng sức của ông có hạn. Dù có thần thông, một mình ông cũng không thể giải cứu nghiệp lực cho mẹ. Ông hãy đợi đến rằm tháng bảy, ngày chư tăng mãn hạ, thiết lễ Vu Lan nhờ sức chư tăng cùng chú nguyện thì mẹ ông mới thoát khỏi được cảnh địa ngục.

Theo như lời Phật dạy, ngày rằm tháng bảy, ngài Mục-kiền-liên thiét lập trai đàn dâng cúng mười phương chư tăng, và nhờ thần lực của chư tăng chú nguyện.

Quả thật như vậy, với đạo nghiệp tấn tu trong 3 tháng hạ, nguyện lực của chư Tăng không những cứu giúp cho bà Thanh-đề mà còn nhiều người khác trong ngày đó cũng được thoát khỏi cảnh địa ngục tối tăm.

Kinh Vu Lan, lễ Vu Lan có từ đó. Tên gọi Vu Lan Bồn (Ullambana) có nghĩa là “cứu cái khổ bị treo ngược”, người Trung Quốc theo nghĩa ấy mà dịch là Cứu đảo huyền (救?¹懸?).

Vào thời đức Phật, ngài Xá-lợi-phất và ngài Mục-kiền-liên là hai cánh tay đắc lực của đức Phật. Cả hai đã làm cho ngoại đạo kính sợ. Ngài Xá-lợi-phất đã dùng trí tuệ biện tài chinh phục ngoại đạo. Còn ngài Mục-kiền-liên với dũng khí kiên cường năng động lại dùng thần thông chế phục ngoại đạo. Bởi thế, có rất nhiều người trong số ngoại đạo rất căm ghét ngài Mục-kiền-liên và luôn tìm cơ hội để bức hại.

Một hôm trên đường đi hóa độ phương xa trở về, hai ngài Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên bị bọn đồ đệ của Bảo-lặc-noa, thuộc phái Ni-kiền-tử (thường gọi là phái lõa hình) đem gậy gộc ra chận đường gây sự: Bọn này hỏi ngài Xá-lợi-phất: “Trong chúng chánh mạng (tiếng tự xưng của phái lõa hình) có sa-môn không?” Vốn là bậc trí tuệ, đoán biết được ý đồ của Bảo-lặc-noa, ngài Xá-lợi-phất nói: “Chúng chánh mạng sa-môn không, chúng Thích-ca sa-môn có. Nếu A-la-hán còn tham ái là không có kẻ ngu si.” Không hiểu ý, tưởng đó là lời khen mình, họ để cho ngài Xá-lợi-phất đi.

Bọn lõa hình lại hỏi ngài Mục-kiền-liên giống như vậy. Với giọng đanh thép, ngài Mục-kiền-liên đáp: “Trong chúng của các ông làm gì có sa-môn.” Cho là giọng trịch thượng, bọn lõa hình tức giận, vác gậy gộc đánh Mục Kiền Liền. Không chịu nổi trận đòn, Mục-kiền-liên bất tỉnh, tưởng là địch thủ đã chết, bọn lõa hình bỏ đi. Ngài Xá-lợi-phất trở lại tìm xem bạn như thế nào. Thấy Mục-kiền-liên bất tỉnh thân thể tím bầm, máu ra lai láng, ngài Xá-lợi-phất lấy cà sa làm võng đưa ngài Mục-kiền-liên về tinh xá. Đại chúng hỏi ngài Mục-kiền-liên:

– Tôn giả là bậc có thần thông, sao lại chịu thua thiệt đến thế?

Ngài Mục-kiền-liên đáp:

– Khi nghiệp lực đến, chỉ một chữ thần còn chưa thể được, huống là phát thông.

Nói xong, tôn giả nhập Niết-bàn. Khi nghe tin ngài Mục-kiền-liên bị ám hại, vua A-xà-thế phẫn nộ hạ lịnh truy nã bọn lõa hình. Khi có tên nào bị bắt, nhà vua cho xử bằng cách ném sống vào hầm lửa.

Sau khi hỏa táng ngài Mục-kiền-liên, ngài Xá-lợi-phất, Mã Túc và Mãn Túc đã đem hài cốt của Mục-kiền-liên về trình Phật. Phật tập họp chúng Tỳ-kheo lại và dạy:

– Này các vị tỳ-kheo! Hãy chiêm ngưỡng hài cốt của Mục-kiền-liên. Đã mang sắc thân, chắc chắn còn có nghiệp phải trả. Nhục thể phải chịu vô thường. Do đó, sinh tử, trả nghiệp là chuyện thường tình. Không có gì phải hoang mang lo sợ. Khi xả báo thân con người nên giữ tâm hồn không mê muội, oán thù, sân hận. Trong các nghiệp, nghiệp khi sắp chết là nghiệp nặng nhất. Mục-kiền-liên vì tuyên dương giáo pháp mà tử nạn, đó là một vinh dự đáng cho tất cả noi gương.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7434)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8358)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7129)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6015)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 6954)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5264)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3953)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8460)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 22746)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4600)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]