Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

32. Vua Phạm-dự bố thí

04/03/201103:31(Xem: 6303)
32. Vua Phạm-dự bố thí

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ TƯ: BỒ-TÁT RA ĐỜI

VUA PHẠM-DỰ BỐ THÍ

Lúc ấy, Phật ở gần thành Xá-vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Bấy giờ chư tỳ-kheo bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Chẳng hay vì nhân duyên gì mà Phật thường tán thán, ca ngợi công đức của việc bố thí. Không biết nguyên do việc ấy thế nào, xin Phật từ bi vì chúng con mà phân biệt giảng thuyết.”

Đức Thế Tôn đáp rằng: “Này chư tỳ-kheo! Hãy chú tâm lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói.

“Này chư tỳ-kheo! Ta nhớ lại về thuở quá khứ cách nay vô số kiếp, nước Ba-la-nại có vị vua tên là Phạm-dự, trị nước theo chánh pháp, nhân dân an ổn, thịnh vượng, không có nạn đao binh, chinh chiến. Trong cõi nước của ngài, các loại trâu bò, voi ngựa, gia súc, thảy đều đông đúc.

“Bấy giờ trong nước có một người bà-la-môn giỏi thuật chiêm tinh, tâu với vua rằng: ‘Thần xem thiên văn thấy có hỏa tinh sanh lại phương này. Ứng theo điềm ấy, khắp nước sẽ phải chịu một cơn hạn hán kéo dài đến 12 năm, mùa màng chẳng thu được gì, nhân dân hết sức đói khổ.’

“Vua Phạm-dự nghe lời ấy rồi, trong lòng buồn bã lo âu, tự suy nghĩ rằng: ‘Nay ta biết tìm cách chi để cứu nhân dân sống qua khỏi kiếp nạn này?’

“Liền cho gọi những người giỏi thuật toán số đến bảo rằng: ‘Các ngươi hãy tính hết số dân trong nước, đem so với số lúa thóc hiện có trong các kho, rồi chia đều xem có thể cung cấp được bao lâu.’

“Những người ấy vâng lệnh vua, tổ chức một cuộc điều tra khắp nước, rồi báo với vua rằng: ‘Nếu chia đều ra, phân phát cho mỗi người một thăng lúa, thì có thể phân phát được 6 năm. Chia như vậy cũng chẳng đủ ăn, nên số người chết chắc là nhiều lắm. Riêng phần của vua thì được chia hai thăng.’ Vua liền ra lệnh cứ y vậy mà phân phát.

“Có một người bà-la-môn sau đó tìm đến vua, tâu rằng: ‘Tâu đại vương! Chỉ có riêng mình tôi bị sót tên không được chia lúa. Mạng sống chỉ còn trong nay mai. Xin đại vương từ bi thương xót, cấp cho ít nhiều.’

“Vua Phạm-dự nghe nói vậy, liền tự nghĩ rằng: ‘Nay người này đang cơn đói thiếu, cần ta bố thí ít nhiều. Nếu ta chẳng thể vì người mà bố thí, thì nói gì đến chuyện sau này tế độ chúng sanh, lại trong vô lượng kiếp vì chúng sanh mà chịu những sự khổ não?’ Nghĩ như vậy rồi, liền giảm phần mình một nửa số lúa, bố thí cho người bà-la-môn ấy.

“Khi ấy, lòng bố thí của vua cảm động đến cả trời đất, khiến cho cung điện của vua trời Đế-thích tự nhiên chấn động, chẳng được yên ổn. Đế-thích suy nghĩ rằng: ‘Nguyên do gì mà cung điện của ta tự nhiên chấn động? Hay là do ta phước đức đã hết, mạng sắp tự diệt nên có điềm báo này?’

“Nghĩ như vậy rồi, liền dùng thần thông quán sát, thấy biết việc vua Phạm-dự trong cơn đói thiếu, có thể vì chúng sanh mà làm được việc rất khó làm, nên cảm ứng đến cung điện nơi cõi trời rung chuyển chấn động.

“Đế-thích liền nghĩ: ‘Nay ta nên đến đó, thử lòng vua xem có thật như thế chăng.’ Liền tự biến hình thành một người bà-la-môn già yếu, bệnh hoạn, chống gậy đến chỗ vua Phạm-dự mà xin ăn. Khi ấy, vua Phạm-dự suy nghĩ: ‘Thân mạng này của ta, dẫu cho có bố thí hay không thì cuối cùng cũng đi đến chỗ chết mà thôi.’ Nghĩ như vậy rồi, trong lòng vui vẻ muốn bố thí, được lợi ích cho chúng sanh thì dù chết cũng không hối hận. Còn chỉ một phần lúa duy nhất của mình, vua liền mang ra bố thí cho người bà-la-môn già yếu ấy.

“Đế-thích nhận bố thí rồi, liền hỏi vua rằng: ‘Đại vương trong cơn đói khát, cơ khổ mà có thể làm được việc rất khó làm, xả bỏ cả thân mạng, như vậy ắt cầu được sanh cõi trời, hoặc cầu làm Chuyển luân Thánh vương chăng, hay cầu được sự vui thú, vinh hoa nơi cõi thế?’

“Vua Phạm-dự đáp: ‘Tôi thật chẳng cầu hết thảy những điều ấy, duy chỉ nguyện trong đời vị lai được thành chánh giác, cứu tế chúng sanh thoát mọi khổ não.’

“Phát nguyện ấy xong, Đế-thích liền nói: ‘Lành thay, lành thay! Thật chưa từng có vậy!’ Nói xong, hiện lại nguyên hình, nói với vua Phạm-dự rằng: ‘Ta thật là vua trời Đế-thích. Nay đại vương nên truyền lệnh cho dân chúng chuẩn bị dọn sửa ruộng đất, trong vòng bảy ngày ta sẽ cho một cơn mưa lớn.’

“Vua Phạm-dự nghe vậy vui mừng khôn xiết, liền truyền rao trong dân chúng, phải cày dọn ruộng đất sẵn sàng, trong vòng bảy ngày sẽ có mưa lớn. Nhân dân được tin hết sức vui mừng, lập tức cày dọn ruộng đất chờ sẵn. Đúng bảy ngày quả nhiên trời đổ cơn mưa lớn. Năm đó mùa màng bội thu, không còn đói thiếu.”

Phật lại bảo A-nan rằng: “Vua Phạm-dự thuở ấy, chính là ta ngày nay. Do nhân duyên ấy, ta thường tán thán công đức bố thí là vô cùng lớn lao, không thể nói hết.”

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/09/2013(Xem: 7690)
Khi bước xuống thuyền vượt biên ai cũng mang đầy hy vọng, mơ ước... Có kẻ mơ ước một tương lai xán lạn ở chân trời mới, có người chỉ mong những giấc mộng bình thường: Ngày hai bữa đủ no, tự do yên ổn...
11/09/2013(Xem: 4230)
Hân tra chìa khóa, mở cửa bước vào phòng làm việc. Căn phòng khá rộng. Diện tích gấp hai sân bóng rổ hầu hết chứa kệ vải. Ở một góc sát cửa sổ nhìn ra ngọn đồi cỏ là chỗ làm việc của Hân với Susan, chiếm 1/6 căn phòng, có một bàn dài, kế đó là những dãy kệ chứa nú
11/09/2013(Xem: 4740)
Hằng năm vào tháng mười, sinh nhật tôi, tôi có thông lệ, trước tiên là tự nhắc mình đóng tiền niêm liễm đến Văn Bút Âu Châu (tôi là hội viên mà), kế đó là cố nặn óc tìm một truyện ngắn về đề tài Sinh Nhật coi như món ăn tinh thần "đãi" quí vị độc giả.
10/09/2013(Xem: 6153)
Một lần nữa, chẳng quản đường xá xa xôi, thời gian, công sức, tôi tìm về tu viện Viên Đức Đức quốc không những gặp lại nhị vị Đại Đức Thích Hạnh Đức, Đại Đức Thích Hạnh Tuệ, tôi đã may mắn tiếp thụ tài thuyết giảng của hai Thầy; một người giảng thật nhẹ nhàng nhưng sâu, một người giảng lôi cuốn hấp dẫn trong khoá tu học do anh em Gia Đình Phật Tử Thụy Sĩ tổ chức vào dịp lễ Phục Sinh hằng năm vừa qua, mà còn hân hoan chào đón thêm 6 vị trong phái đoàn “Hoằng Pháp Âu Châu” do Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển tổ chức, một lực lượng hùng hậu chưa từng có từ trước đến nay. Nhìn trong danh sách giảng huấn của phái đoàn, tôi gọi đùa, toàn “Cao thủ võ lâm!” mặc dù không ai là võ sĩ cả mà là tu sĩ!
10/09/2013(Xem: 7658)
“Hậu sinh khả úy“ (kẻ sanh sau thật đáng nể sợ) là câu nói của ngài Khổng Tử, một triết gia Trung Hoa thốt ra khi ngài cùng học trò đi dạo thấy một em nhỏ vọc gạch cát xây thành giữa lối đi, ngài bảo: “Tránh chỗ cho xe ta qua“. Đứa nhỏ đứng dậy, đáp: “Xưa nay, xe tránh thành, chứ thành nào lại tránh xe“. Thấy đứa nhỏ đối đáp thông minh, Khổng Tử xuống xe cùng bé trò chuyện, đưa ra nhiều câu hỏi rất khó khăn, đứa bé đều trả lời thông suốt
09/09/2013(Xem: 5184)
Đối với những ai đã từng ghé Ấn Độ, nghe ngóng, tìm hiểu, quan sát, hẳn không xa lạ gì với thế giới của lực lượng Tăng Ni sinh viên Việt Nam đang du học tại đó. Nhưng với riêng tôi, cho mãi năm 2011 trong chuyến hành hương Tích Lan, tôi mới thực sự biết được bằng mắt thấy tai nghe thế giới lạ đó qua sự giới thiệu của Hòa Thượng Phương Trượng chùa Viên Giác về bốn sinh viên tu sĩ, học tăng từ Ấn Độ.
09/09/2013(Xem: 5242)
Nói đến, viết đến các khóa học Âu Châu, bao năm qua cây viết của tôi đã gần mòn, đã có nhiều bài viết về khóa học, viết đến độ không còn gì để viết. Nào ăn, nào ngủ, nào học, nào chơi... đủ cả. Khỏe cả bên trong, tốt lẫn cả bên ngoài. Thế thì lần này sẽ viết về gì đây?! Xin thưa, viết về “Thiên Đường Hạ Giới“ ạ.
06/09/2013(Xem: 4324)
Từ chùa Từ Đàm, tôi trở lại khóa học, nơi tổ chức khóa tu Âu Châu của mười ngày qua. Sân trường giờ vắng hoe. Thảm cỏ xanh dẫn ra con đường lớn, không còn một bóng người. Vài băng ghế nằm rải rác trên sân cỏ cũng đìu hiu như nhớ, như chờ ai. Bên trong trường học lưa thưa sót lại một số người đang dọn dẹp và một số đang đợi chuyến bay cho ngày hôm sau khi khóa học bế giảng. Hằng ngàn người, mới đó mà...biến mất. Biến như một cơn gió thoảng qua.
06/09/2013(Xem: 8541)
Lý số, đông y là nghề của bố chồng tôi. Không rõ nhờ cụ thực tài hay tại hành nghề miễn phí, không nhận thù lao của khách nên khách của cụ khá đông. Một ngày, năm đó tôi vừa 23 tuổi, có một vị khách đặc biệt đến nhà giữa lúc bố tôi đi vắng. Vị khách tướng tá khác phàm, râu tóc bạc phơ, cốt cách như một tiên ông. Cụ mặc chiếc áo dài the, đầu đội khăn đóng như bố chồng tôi vậy, tay cụ cầm gậy trúc và tự xưng là bạn của bố tôi mặc dù xưa nay tôi chưa hề gặp cụ bao giờ. Tôi mời cụ vào nhà.
29/08/2013(Xem: 9956)
Năm 1983: chúng tôi cạn kiệt khi mua xong đất làm tự viện mà còn thêm nợ nữa. Mảnh đất thật trơ trọi, không nhà cửa, một túp liều cũng không, Suốt mấy tuần lễ đầu chúng tôi phải ngủ trên cánh cửa cũ mua rẻ trong bãi phế liệu. Chúng tôi kê bốn góc gạch làm giường (dĩ nhiên làm gì có nệm – chúng tôi tu ở rừng mà!).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]