Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17. Cúng dường âm nhạc

04/03/201103:31(Xem: 6106)
17. Cúng dường âm nhạc

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ HAI: CÚNG DƯỜNG ĐƯỢC THỌ BÁO

CÚNG DƯỜNG ÂM NHẠC

Bấy giờ, Phật ở tại thành Xá-vệ, nơi vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc, cùng với chư vị tỳ-kheo tăng. Khi ấy, trong thành có 500 vị càn-thát-bà rất giỏi tài đàn ca, hát nhạc, thường dùng âm nhạc hay lạ mà cúng dường Phật, chẳng lúc nào rời xa. Danh tiếng hay giỏi của các vị lan xa khắp nơi, bốn phương đều nghe biết.

Khi ấy, ở một thành kia về phía Nam, có vị vua loài càn-thát-bà tên là Thiện Ái, cũng rất giỏi thuật chơi đàn, khắp trong vùng không ai giỏi hơn. Vì thế sanh lòng kiêu căng tự đại, cho là chẳng ai bằng mình. Vua Thiện Ái nghe nói nơi thành Xá-vệ có những vị càn-thát-bà giỏi về thuật chơi đàn, liền vượt đường xa mà tìm đến, trải qua rất nhiều nơi, tính có đến 16 cõi nước lớn. Đi đến đâu cũng chỉ dùng cây đàn có một dây mà phát ra được đủ bảy thứ âm thanh khác nhau, mỗi âm thanh lại có đến 21 cách diễn tấu, khiến cho nhân dân khắp các xứ ấy nghe qua đều sanh tâm vui mừng nhảy nhót, cho đến cuồng nhiệt chẳng thể tự chế.

Vua Thiện Ái tìm đến thành Xá-vệ rồi, muốn gặp vua Ba-tư-nặc để thăm hỏi. Lúc ấy, vị thần canh giữ thành quách và các vị càn-thát-bà ở đó biết chuyện mới đến tâu với vua Ba-tư-nặc rằng: “Ở cõi nước về phía Nam có vị vua càn-thát-bà tên là Thiện Ái, giỏi việc chơi đàn, nay đang ở ngoài cổng thành, có ý muốn gặp đại vương, vì nghe rằng trong xứ của đại vương có những vị càn-thát-bà cũng giỏi thuật chơi đàn, nên từ xa đến đây muốn được cùng so tài.” Vua Ba-tư-nặc liền lệnh cho người giữ cửa thành mời vua Thiện Ái vào, cùng nhau hội kiến, đôi bên đều vui vẻ.

Vua Thiện Ái nói: “Tôi nghe trong xứ của đại vương có những vị càn-thát-bà giỏi việc chơi đàn, chẳng hay hiện giờ ở đâu? Ý tôi muốn được cùng họ so tài chơi đàn xem ai hơn, ai kém.” Vua Ba-tư-nặc đáp: “Chuyện ấy ta thật không ngại. Chỗ họ ở cách đây cũng chẳng xa, nay ta với ngài cùng đi đến đó, tùy ý mà so tài.” Vua Thiện Ái nhận lời.

Cùng nhau đi đến chỗ Phật. Phật vốn đã biết ý vua Ba-tư-nặc nên liền tự biến hình thành một vị vua càn-thát-bà, cùng với nhiều vị thiên thần khác nữa, số đông đến 7.000 vị, thảy đều ôm đàn làm bằng ngọc lưu ly, đứng hầu hai bên tả hữu. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc mới nói với vua Thiện Ái rằng: “Đó đều là các vị thần chơi nhạc của tôi. Nay ông có thể cùng so tài xem ai hơn kém.”

Vua Thiện Ái liền lấy cây đàn một dây ra khảy, phát thành bảy thứ âm thanh khác nhau, mỗi âm thanh lại có 21 cách biến tấu, tiếng đàn tiếng gõ hòa hợp cùng nhau nghe rất êm tai, lại khiến cho người nghe sinh lòng vui mừng, cho đến nhảy nhót cuồng nhiệt không thể tự chế được.

Đức Thế Tôn khi ấy liền lấy cây đàn quý bằng ngọc lưu ly ra, khảy lên thành ngàn vạn thứ âm thanh khác nhau, mỗi mỗi âm thanh đều êm dịu, hòa hợp, khiến người nghe sinh lòng thích thú, cười múa theo điệu nhạc, rồi lại sinh tâm hoan hỷ, vui mừng không kể xiết.

Vua Thiện Ái nghe Phật khảy đàn rồi, khen là chưa từng có, liền tự mình cảm thấy hổ thẹn, sinh lòng cảm phục, liền quỳ xuống chấp tay lễ bái, xin tôn Phật làm thầy mà theo học thuật chơi đàn.

Khi ấy, Phật biết là vua Thiện Ái đã dẹp bỏ lòng kiêu căng ngã mạn lâu nay, tâm ý được điều phục, nên ngài liền hiện lại hình Phật, có chư tỳ-kheo tĩnh lặng ngồi quanh. Vua Thiện Ái lúc đó kinh sợ, đối trước Phật liền sinh lòng tin phục, quỳ xuống chấp tay xin được xuất gia nhập đạo. Phật nói: “Lành thay đó, tỳ-kheo.” Vừa nói xong thì râu tóc trên người vua liền tự rụng hết, y phục đang mặc trên người hóa thành cà-sa, tự nhiên thành ra một vị sa-môn. Rồi đó, tinh tấn tu tập nên chẳng bao lâu sau liền đắc quả A-La-hán.

Vua Ba-tư-nặc thấy vua Thiện Ái tâm ý được điều phục, đắc thành đạo quả thì sinh tâm hoan hỷ vui mừng, liền quỳ xuống mà thỉnh Phật với chư tỳ-kheo tăng đến nhận lễ cúng dường. Phật liền nhận lời.

Vua liền ra lệnh cho quần thần chuẩn bị lễ đàn, sửa dọn đường sá cho bằng phẳng, nhặt sạch hết sỏi, đá cho đến các thứ đồ ô uế, lại sắp sửa đủ các thứ lễ nghi trang nghiêm, trân trọng như tràng phan, chuông khánh, hương hoa, nước sạch... cùng là chỗ ngồi, chỗ nằm rộng rãi đẹp đẽ, với đủ các món ăn thức uống quý lạ, tinh khiết, cúng dường Phật và chư tỳ-kheo tăng.

Lúc bấy giờ, chư tỳ-kheo thấy việc xảy ra, đều khen là chưa từng có, liền thưa hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên phước báo nào mà nay có kẻ dùng âm nhạc cúng dường Phật mãi mãi chẳng dứt như vậy?”

Phật nói với chư tỳ-kheo: “Các ngươi nên chú ý lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói.

“Này Chư tỳ-kheo! Về thuở quá khứ, cách nay vô số kiếp, nước Ba-la-nại có Phật ra đời hiệu là Chánh Giác, cùng với chư tỳ-kheo đi khắp nơi giáo hóa chúng sanh, đến xứ của một vị vua tên là Phạm-ma. Khi ấy Phật cùng với chư tỳ-kheo dừng dưới một cội cây, ngồi kiết già, nhập Hỏa quang tam-muội, ánh sáng chiếu khắp cõi trời đất. Lúc bấy giờ vua Phạm-ma cùng với quần thần số đông đến ngàn vạn người, ra khỏi thành mà dạo chơi, có dẫn theo các đoàn kỹ nữ, nhạc công để múa hát. Vua ấy từ xa trông thấy Phật với chư tỳ-kheo ngồi kiết già dưới cội cây, có ánh sáng chiếu rọi sáng hơn cả ngàn mặt trời, sinh lòng hoan hỷ, vui mừng, liền dẫn các đoàn nhạc công, kỹ nữ đến đó lễ bái nơi chân Phật, trỗi nhạc mà cúng dường. Vua lại quỳ thỉnh Phật và chư tỳ-kheo tăng vào thành cúng dường. Phật nhận lời.

Vua Phạm-ma thiết lễ cúng dường trọng hậu, đủ các món ăn ngon lạ, tinh sạch. Lễ cúng dường xong, Phật vì vua Phạm-ma mà thuyết pháp. Vua nghe Pháp rồi liền phát tâm vô thượng Bồ-đề. Đức Phật Chánh Giác liền thọ ký cho vua rằng: “Ngươi về sau sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni.”

Phật lại bảo chư tỳ-kheo rằng: “Vua Phạm-ma thuở ấy chính là ta ngày nay. Quần thần thuở ấy nay chính là tỳ-kheo các ngươi. Nhờ nhân duyên cúng dường, phụng sự đức Phật Chánh Giác thuở ấy, nên trải qua bao kiếp lưu chuyển, ta chẳng bao giờ đọa vào các đường địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, thường hưởng những sự khoái lạc trong cõi trời, cõi người, cho đến ngày nay được quả vị vô thượng Bồ-đề. Cũng vì thế mà khắp trong cõi trời người, ai ai cũng muốn đến cúng dường ta.”

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/09/2013(Xem: 7691)
Khi bước xuống thuyền vượt biên ai cũng mang đầy hy vọng, mơ ước... Có kẻ mơ ước một tương lai xán lạn ở chân trời mới, có người chỉ mong những giấc mộng bình thường: Ngày hai bữa đủ no, tự do yên ổn...
11/09/2013(Xem: 4231)
Hân tra chìa khóa, mở cửa bước vào phòng làm việc. Căn phòng khá rộng. Diện tích gấp hai sân bóng rổ hầu hết chứa kệ vải. Ở một góc sát cửa sổ nhìn ra ngọn đồi cỏ là chỗ làm việc của Hân với Susan, chiếm 1/6 căn phòng, có một bàn dài, kế đó là những dãy kệ chứa nú
11/09/2013(Xem: 4740)
Hằng năm vào tháng mười, sinh nhật tôi, tôi có thông lệ, trước tiên là tự nhắc mình đóng tiền niêm liễm đến Văn Bút Âu Châu (tôi là hội viên mà), kế đó là cố nặn óc tìm một truyện ngắn về đề tài Sinh Nhật coi như món ăn tinh thần "đãi" quí vị độc giả.
10/09/2013(Xem: 6153)
Một lần nữa, chẳng quản đường xá xa xôi, thời gian, công sức, tôi tìm về tu viện Viên Đức Đức quốc không những gặp lại nhị vị Đại Đức Thích Hạnh Đức, Đại Đức Thích Hạnh Tuệ, tôi đã may mắn tiếp thụ tài thuyết giảng của hai Thầy; một người giảng thật nhẹ nhàng nhưng sâu, một người giảng lôi cuốn hấp dẫn trong khoá tu học do anh em Gia Đình Phật Tử Thụy Sĩ tổ chức vào dịp lễ Phục Sinh hằng năm vừa qua, mà còn hân hoan chào đón thêm 6 vị trong phái đoàn “Hoằng Pháp Âu Châu” do Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển tổ chức, một lực lượng hùng hậu chưa từng có từ trước đến nay. Nhìn trong danh sách giảng huấn của phái đoàn, tôi gọi đùa, toàn “Cao thủ võ lâm!” mặc dù không ai là võ sĩ cả mà là tu sĩ!
10/09/2013(Xem: 7658)
“Hậu sinh khả úy“ (kẻ sanh sau thật đáng nể sợ) là câu nói của ngài Khổng Tử, một triết gia Trung Hoa thốt ra khi ngài cùng học trò đi dạo thấy một em nhỏ vọc gạch cát xây thành giữa lối đi, ngài bảo: “Tránh chỗ cho xe ta qua“. Đứa nhỏ đứng dậy, đáp: “Xưa nay, xe tránh thành, chứ thành nào lại tránh xe“. Thấy đứa nhỏ đối đáp thông minh, Khổng Tử xuống xe cùng bé trò chuyện, đưa ra nhiều câu hỏi rất khó khăn, đứa bé đều trả lời thông suốt
09/09/2013(Xem: 5184)
Đối với những ai đã từng ghé Ấn Độ, nghe ngóng, tìm hiểu, quan sát, hẳn không xa lạ gì với thế giới của lực lượng Tăng Ni sinh viên Việt Nam đang du học tại đó. Nhưng với riêng tôi, cho mãi năm 2011 trong chuyến hành hương Tích Lan, tôi mới thực sự biết được bằng mắt thấy tai nghe thế giới lạ đó qua sự giới thiệu của Hòa Thượng Phương Trượng chùa Viên Giác về bốn sinh viên tu sĩ, học tăng từ Ấn Độ.
09/09/2013(Xem: 5242)
Nói đến, viết đến các khóa học Âu Châu, bao năm qua cây viết của tôi đã gần mòn, đã có nhiều bài viết về khóa học, viết đến độ không còn gì để viết. Nào ăn, nào ngủ, nào học, nào chơi... đủ cả. Khỏe cả bên trong, tốt lẫn cả bên ngoài. Thế thì lần này sẽ viết về gì đây?! Xin thưa, viết về “Thiên Đường Hạ Giới“ ạ.
06/09/2013(Xem: 4324)
Từ chùa Từ Đàm, tôi trở lại khóa học, nơi tổ chức khóa tu Âu Châu của mười ngày qua. Sân trường giờ vắng hoe. Thảm cỏ xanh dẫn ra con đường lớn, không còn một bóng người. Vài băng ghế nằm rải rác trên sân cỏ cũng đìu hiu như nhớ, như chờ ai. Bên trong trường học lưa thưa sót lại một số người đang dọn dẹp và một số đang đợi chuyến bay cho ngày hôm sau khi khóa học bế giảng. Hằng ngàn người, mới đó mà...biến mất. Biến như một cơn gió thoảng qua.
06/09/2013(Xem: 8542)
Lý số, đông y là nghề của bố chồng tôi. Không rõ nhờ cụ thực tài hay tại hành nghề miễn phí, không nhận thù lao của khách nên khách của cụ khá đông. Một ngày, năm đó tôi vừa 23 tuổi, có một vị khách đặc biệt đến nhà giữa lúc bố tôi đi vắng. Vị khách tướng tá khác phàm, râu tóc bạc phơ, cốt cách như một tiên ông. Cụ mặc chiếc áo dài the, đầu đội khăn đóng như bố chồng tôi vậy, tay cụ cầm gậy trúc và tự xưng là bạn của bố tôi mặc dù xưa nay tôi chưa hề gặp cụ bao giờ. Tôi mời cụ vào nhà.
29/08/2013(Xem: 9956)
Năm 1983: chúng tôi cạn kiệt khi mua xong đất làm tự viện mà còn thêm nợ nữa. Mảnh đất thật trơ trọi, không nhà cửa, một túp liều cũng không, Suốt mấy tuần lễ đầu chúng tôi phải ngủ trên cánh cửa cũ mua rẻ trong bãi phế liệu. Chúng tôi kê bốn góc gạch làm giường (dĩ nhiên làm gì có nệm – chúng tôi tu ở rừng mà!).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]