Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát (trọn bộ 03 tập)

20/02/201301:48(Xem: 16722)
Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát (trọn bộ 03 tập)
Nhung chuyen linh ung ve Bo Tat Dia Tang-box_1

*
Nhung chuyen linh ung ve Bo Tat Dia Tang-tap 1

🙏🙏🙏🌻🌻🌻🌺🌺🌺🌿🌿🌿💐💐💐

Lời đầu sách

Năm 2007 khi chúng tôi đang nhập thất tại Úc Châu thì có một Phật Tử tên là Huỳnh Hiệp từ Hoa Kỳ có liên lạc qua bằng E-mail cho Thầy Hạnh Tấn và nhờ tôi phiên dịch tác phẩm "Những mẩu chuyện linh ứng của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát tại Fuchù - Nhật Bản“ từ tiếng Nhật sang tiếng Việt.

Tôi bảo cứ gởi một số chuyện tiêu biểu sang Úc, tôi dịch thử. Nếu đồng ý với cách dịch ấy thì tôi sẽ tiếp tục. Sau một tuần lễ, tôi gởi trở lại 3 chuyện đầu đã dịch của quyển một cho Phật Tử nầy và anh ta rất hoan hỷ và nhờ tôi dịch tiếp cho đến hết quyển sách. Tôi trả lời rằng: "Tôi rất sẵn sàng; nhưng tôi rất ít thì giờ; khi nào xong tôi chưa biết; nhưng tôi sẽ cố gắng. Đồng thời việc đánh máy sẽ giao cho các anh chị em thực hiện". Cầm quyển sách trên tay độ 400 trang A4 thấy cũng hơi nhiều; nhưng thôi, cứ cố gắng vậy. Ông bà mình thường nói: "Kiến tha lâu đầy tổ“ quả câu nầy chẳng sai chút nào. Tôi mang quyển sách ấy đi theo cùng với những chuyến hoằng pháp tại Ý, Hoa Kỳ, Đan Mạch, Nga, Na Uy v.v… nghĩa là nơi nào ngoài giờ giảng và hướng dẫn cho quý Phật Tử tu, tôi cố gắng phiên dịch cho xong quyển nầy, ngay cả trong mùa An Cư Kiết Hạ vừa rồi tại chùa Viên Giác Hannover tôi cũng đã dành rất nhiều thời giờ cho việc phiên dịch quyển sách nầy.

Mùa hè năm 2008 có Sư Cô Chơn Toàn giúp đỡ đánh máy toàn bộ quyển sách nầy; nên bây giờ anh Như Thân đã Layout và chú Sanh ở văn phòng chùa Viên Giác sửa lại lỗi chính tả để hoàn thành quyển sách và hôm nay thì sách đã trang trí xong, độ hơn 900 trang A5 và kèm thêm những hình ảnh nữa; cho nên quyển truyện rất dày, chắc phải đóng bìa cứng mới được. Do vậy giá thành mỗi cuốn khi ấn tống có lẽ rất cao. Kính mong quý Đạo Hữu ở Hoa Kỳ cũng như Âu Châu và khắp nơi trên thế giới hỗ trợ cho việc in ấn nầy để sách được ra đời, nhằm tô điểm thêm cho đức tin của người con Phật ở nhiều phương điện khác nhau.

Khi nhắc đến Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát đa phần chúng ta đều nghĩ đến "Kinh Địa Tạng“ cũng như những mẩu chuyện tiếp độ cho những người chết qua
những câu chuyện được kể rải rác đó đây; nhưng trong gần 300 câu chuyện của quyển sách nầy hơn 90 phần trăm là Ngài đã cứu cho người sống, nhất là những người bị bệnh hiểm nghèo, chính y khoa Nhật Bản bó tay, người bệnh hay thân nhân họ khi đến cầu nguyện nơi Ngài sẽ nhận được những phép mầu.

Chữ Địa Tạng tiếng Phạn gọi là Kstigarbha. Chữ Ksti có nghĩa là đất; garbha có nghĩa là tạng hay tàng chứa. Đất có khả năng tàng chứa mọi vật, mọi thứ.

Điều nầy chứng tỏ rằng hạnh nguyện của vị Bồ Tát nầy có sức kham nhẫn, chịu đựng giống như sự nhẫn nại của đất vậy. Trong Ấn Độ giáo họ có thờ Thiên Tiên và Địa Mẫu. Thiên Tiên thường thường là người nam; còn Địa Mẫu đa phần là người nữ. Địa Mẫu của Ấn Độ giáo, mà Phật Giáo đã từ từ đồng hóa thành vị Bồ Tát củaPhật Giáo qua hình thức là một người nam; nhất là khi qua đến Trung Hoa, Nhật Bản,  Việt Nam, Đại Hàn v.v… là tướng của một Tăng sĩ xuất gia đầu tròn áo vuông, đầu đội mũ Tỳ Lư và ngồi trên lưng con Đề Thính, tay cầm tích trượng. Đây chính là hình ảnh của Ngài Kim Kiều Giác, là một Đông Cung Thái Tử triều nhà Kim bên Đại Hàn, khi qua Trung Quốc và đến Cửu Hoa Sơn vào đời thịnh Đường (thế kỷ thứ 7) để tìm chơn thân và hạnh nguyện của Ngài Địa Tạng; nhưngcuối cùng Ngài Kim Kiều Giác là hiện thân của Ngài Địa Tạng khi Ngài viên tịch ở tuổi 88 tại Cửu Hoa Sơn.Do vậy Cửu Hoa Sơn là một trong 4 địa danh sơn của bốn vị Bồ Tát đang hùng cứ 4 dãy núi to lớn tại Trung Quốc cho đến ngày hôm nay.

Khi dịch sách tôi cũng rất thận trọng. Vì lỡ mình truyền đi những điều mê tín cho Phật Tử thì không nên; do vậy vừa dịch ra tiếng Việt vừa kiểm lại xem thử ra sao và tôi xin kết luận rằng: Sác suất của độ chính tín hơn 80 phần trăm; 20 phần trăm còn lại dĩ nhiên là do cái nầy có; nên cái kia nó sinh ra thêm. Như vậy cũng không sai với nhân duyên trong giáo lý nhà Phật là mấy.

Dựa vào cơ sở nào để tôi nói rằng: Đây là quyển sách và những câu chuyện đa phần là chánh tín ? Xin thưa - Dựa vào văn hóa của người Nhật Bản và dựa vào Đức Tin của con người. Đứng về phương diện văn hóa mà nói thì kể từ thời Minh Trị Duy Tân (1868) tất cả mọi người dân Nhật đều phải trải qua chế độ „nghĩa vụ giáo dục“ có nghĩa là vào thời đó, bất cứ ai cũng phải học xong Tiểu Học. Sau hơn 100 năm, vào năm 1972 khi tôi có dịp sang Nhật Bản du học và vào lúc ấy thì mọi người dân Nhật đều phải tốt nghiệp Tú Tài 2; nghĩa là phải xong Trung Học đệ nhị cấp. Còn bây giờ vào thời điểm 2008 nầy gần 130 triệu dân Nhật hầu như không có người nào là không tốt nghiệp Đại Học. Như vậy là một nước Á Châu theo Phật Giáo có trình độ dân trí cao. Khi dân trí cao, dĩ nhiên y học cũng phải cao theo; nhưng tại sao từ năm 1976 đến năm 2008, gần 35 năm, và mỗi năm có khoảng một triệu người Nhật đến đây cầu nguyện chữa bệnh; trong đó hơn 70 phần trăm được lành bệnh, mà đa phần những bịnh như ung thư, trĩ, phong thấp, tê liệt v.v…mà Bác sĩ y khoa Nhật Bản đã chê, mà đến Ngài Địa Tạng cầu nguyện lại sống thêm được 5 đến 10 năm nữa và căn bệnh lại được trị lành hoàn toàn? Dĩ nhiên là không ai có thể sống đến 100 năm hay mấy trăm năm trên cuộc thế; nhưng đã có bịnh thì ai cũng mong muốn chữa cho khỏi; nếu bịnh không khỏi, ví như có một hòn đá cứ phải đeo mãi vào lưng thì khổ sở biết c hừng nào. Cách chữa bịnh của Ngài do con người cầu nguyện mà có; chứ không phải Ngài ra toa thuốc cho mọi người. Nếu có thì toa thuốc ấy chỉ là niềm tin và câu thần chú của Ngài là: Án Ha Ha Ha Vỹ Sa Ma Lý Sa Bà Ha“ mà thôi.

Như vậy không có nghĩa là người Nhật Bản không mê tín; nhưng ở đây tôi chứng minh là  độ mê tín ít hơn với những người ít học. Vì ít ra văn hóa và y khoa hiện đại vẫn là nền móng căn bản cho sự chữa trị theo quan niệm thông thường. Đa phần khi người ta nghĩ đến niềm tin, người ta hay xoay qua thời kỳ Trung Cổ hay thời kỳ khoa học chưa tiến bộ mấy; nhưng Nhật Bản ngày nay là một trong những nước lớn trên thế giới, mạnh mẽ ở nhiều phương diện như kinh tế, khoa học, giáo dục, y khọc, giao thông v.v… nhưng Đức Tin ở đây vẫn vượt thắng trên tất cả. Riêng cá nhân tôi khi ở tuổi 59 vào năm ngoái (2007) mỗi ngày ngồi dịch sách, kinh 5 đến 6 tiếng đồng hồ và tối, sáng còn ngồi tụng kinh cũng như hành trang nữa; nên cái lưng khiến nó không tuân phục nữa. Nghĩa là mỗi ngày đều bị đau. Khi dịch những mẩu chuyện linh ứng nầy tôi phát nguyện rằng: „Nếu quả Ngài thật linh ứng thì xin cho con hết đau lưng sau khi con dịch xong sách nầy và con sẽ tổ chức một chuyến hành hương đến Nhật để đảnh lễ tham bái và tạ lễ Ngài“. Quả thật như vậy. Sau khi dịch xong vào tháng 6 năm 2008 cái lưng của tôi bớt đau độ 80 phần trăm. Do vậy tôi xúc tiến tổ chức một phái đoàn sang hành hương nước Nhật từ ngày 6 đến ngày 17 tháng 10 năm 2008. Chương trình dự trù đi Kanagawaken để thăm và dự lễ đặt đá xây dựng Chùa Việt Nam nơi Hòa Thượng Thích Minh Tuyền trụ trì, thăm Hachioji, chùa Honryuji nơi tôi đã có cơ duyên tá túc từ năm 1972 đến năm 1977, thăm Đại Học Teikyo, thăm tượng Phật Di Đà cao 120 mét tại Ushikyu gần Tokyo. Tiếp theo là thăm những chùa viện quanh vùng Yokohama và Tokyo. Đặc biệt phái đoàn 32 người đến từ Âu Châu và Mỹ Châu đã ghé thăm chùa Soojiji (Tổng Trì Tự) là Tổng Bổn Sơn của Thiền Tào Động Nhật Bản. Tiện thể tôi đã tặng dịch phẩm „Thiền Tào Động“ cho Ngài tác giả IZUMA là thiền chủ tại đây. Sau đó phái đoàn đi Kyoto để thăm chùa Tây Bổn Nguyện Tự, Thanh Thủy tự và đồng thời thăm chùa Tổ Tịnh Độ Từ Ân Viện nơi Ngài Pháp Nhiên khai sơn cũng như Ngài Thân Loan tu Tịnh Độ. Tại đây chúng tôi có tặng một quyển sách dịch về Tịnh Độ Tông Nhật Bản cho vị Sư trụ trì. Phái đoàn tiếp tục đi Osaka và địa phương cuối cùng là thành phố Fuchù ở Hiroishima. Fuchù là một thành phố nhỏ nằm trong tỉnh lỵ Hiroshima và Đức Địa Tạng không có đầu đang được tôn trí trên một ngọn đồi rất quang đãng. Ngày xưa nơi đây là đồng ruộng và bây giờ vẫn còn cảnh nông trang bao bọc chung quanh; nhưng khi leo lên dốc để vào đảnh lễ Ngài, lòng người con Phật đến đây từ xa hơn nửa vòng trái đất, thấy dường như có cái gì đó thật cảm động ở tận đáy lòng. Chúng tôi 32 người không ai bảo ai, cả Tăng lẫn tục đều y áo chỉnh tề để làm lễ và sau đó ai muốn cầu nguyện riêng cho mình và cho thân nhân thì cứ việc hành trì. Hôm đó là sáng ngày 15 tháng 10 năm 2008. Mỗi người thỉnh một hay nhiều chiếc khăn tay, trên đó có viết câu thần chú bằng tiếng Nhật là: „Án Ha Ha Ha Vỹ Sa Ma Lý Sa Bà Ha“ và đem khăn nầy đến cọ sát vào mình đá của Ngài nhiều lần cũng như nói tên họ của người bịnh và đem về lại nhà. Khi nào người bịnh đau cái gì và đau nơi đâu thì để khăn ấy vào chỗ đau và tụng câu thần chú ấy, sẽ có hiệu nghiệm ngay.

Dĩ nhiên là sự cầu nguyện đối với trong phái đoàn cũng có hiệu nghiệm ngay. Bằng chứng là nhiều bà cụ đi đến đây bằng xe lăn và gậy chống; nhưng bây giờ khi leo lên dốc không cần xe lăn lẫn gậy chống nữa và mãi cho đến khi về lại Đức cũng chưa lần nào dùng đến gậy nữa. Quả là phép Phật nhiệm mầu là vậy. Trong đoàn cũng có nhiều Thầy Cô và quý Phật Tử đi tam bộ nhứt bái để đảnh lễ Ngài và cũng có nhiều người thấy được ánh hào quang của Ngài xuất hiện giữa ban ngày. Có người lấy nước suối uống; có người lấy bột nhang mang về lại Âu Châu, lỡ cơ nhỡ có ai bị bịnh phỏng hay bịnh khó trị, có khi còn dùng đến được nữa. Thực tế thì „mọi pháp đều do nhân duyên sanh và mọi pháp cũng đều do nhân duyên diệt“ cho nên sự đến, sự đi, sự còn, sự mất… tất cả cũng chỉ là một hiện tượng mà thôi. Ngay cả ba ngàn Đại Thiên Thế Giới lớn nhỏ nầy Đức Phật nói trong kinh Kim Cang cũng chỉ là một hợp tướng thôi. Đã là một hợp tướng, tức có khi tan rã. Lúc ấy là lúc không đủ duyên. Như vậy trên cuộc đời nầy đâu có cái gì miên viễn ngoài niềm tin đâu. Hãy tin sâu và nguyện thiết thì tất cả mọi nguyện ước sẽ thành tựu. Tiếng Đức có câu là: Alle Phänomen sind unbeständig hay Alle Phänomen sind unsicher. Nghĩa là „mọi hiện tượng đều không có thật tướng; mọi hiện tượng đều không chắc chắn“. Đã gọi là hiện tượng thì có gì đâu mà nắm chắc vào để cho khổ lụy tấm thân nầy. Vì căn bản của nó là giả. Phật hay Bồ Tát là đúng như các pháp vẫn thường hằng. Còn chúng ta cứ giong ruổi mãi trong 6 nẻo luân hồi chưa biết lúc nào ra; nếu không nhờ vào tha lực của Đức Phật A Di Đà hay sự cứu khổ độ mê của Ngài Địa Tạng hay Đức Quan Thế Âm Bồ Tát thì chúng ta vẫn còn mãi chìm đắm nơi cảnh khổ của sanh tử luân hồi.

Tôi, anh, chị, em, con, cháu v.v... tất cả rồi cũng sẽ trôi qua đi. Vì chúng ta mỗi người đến đây cũng chỉ một thời gian ngắn để làm một số công việc, rồi đến ngày cũng phải theo Phật về Tây. Vậy khi còn sống chúng ta phải làm một cái gì đó cho thật có ý nghĩa, để khi ra đi chúng ta chẳng có ân hận gì. Vì thực tế của cuộc sống nầy nó cũng chỉ là một sự giả hợp mà thôi.

Mong rằng quý Đạo Hữu, Phật Tử khi đọc những câu chuyện linh ứng nầy hãy ghi nhớ vào lòng và nếu ai có nhân duyên hãy nên một lần đến đó để được đảnh lễ Ngài và mong Ngài cứu độ.

Kính nguyện
Viết xong lời tựa vào ngày 15 tháng 12 năm 2008
tại Tu Viện Đa Bảo – Úc Đại Lợi, nhân lần nhập
thất thứ 6.
Dịch giả: Sa Môn Thích Như Điển



pdf-icon
01. Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát _tập 01_HT Thích Như Điển dịch Việt

Chuyển ngữ: HT Thích Như Điển
Diễn đọc: Cư sĩ Diệu Danh


T
ập 1 - Phần 1

  
Tập 1 - Phần 2


Tập 1 - Phần 3


Tập 1 - Phần 4


Tập 1 - Phần 5


Tập 1 - Phần 6



Tập 1 - Phần 7



Tập 1 - Phần 8



Tập 1 - Phần 9





Nhung chuyen linh ung ve Bo Tat Dia Tang-tap 2
*
pdf-icon
02. Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát _tập 02_HT Thích Như Điển dịch Việt


Tập 2 - Phần 1

 


Tập 2 - Phần 2

 

Tập 2 - Phần 3



Tập 2 - Phần 4


Tập 2 - Phần 5


Tập 2 - Phần 6



Tâp 2 - Phần 7



Tập 2 - Phần 8






Nhung chuyen linh ung ve Bo Tat Dia Tang-tap 3
*

Tập 3 - Phần 1



Tập 3 - Phần 2



T
ập 3 - Phần 3



Tập 3 - Phần 4



Tập 3 - Phần 5




Tập 3 - Phần 6





 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/05/2021(Xem: 21815)
Thiền sư Minh Hoằng Tử Dung, Tổ thứ 34 của Thiền Phái Lâm Tế, đến Việt Nam truyền giáo vào cuối thế kỷ 17, đệ tử nối pháp của Ngài là Thiền Sư Thiệt Diệu Liễu Quán, Sơ Tổ của Phái Lâm Tế Liễu Quán tại Việt Nam. Thời Pháp Thoại thứ 240 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Bảy, 29/05/2021 (18/04/Tân Sửu) 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ “Vạn pháp qui nhất, nhất qui hà xứ? (Muôn pháp về một, một về chỗ nào?) “ (Câu Thoại Đầu của Thiền Sư Minh Hoằng Tử Dung trao cho đệ tử Thiệt Diệu Liễu Quán tham cứu trong 8 năm ròng rã) 💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼🌺🍀💐🌼 💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼🌺🍀💐🌼 Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thí
03/05/2021(Xem: 4633)
Sư Giác Phổ định lấy vé cho tại hạ về Huế, nhưng ông bạn “nhong nhong”, buộc phải lên Daklak đi xe với anh em, đâu được ưu tiên biệt đãi thế! 6g chiều vừa xuống sân bay, sư đã đón tại sảnh; Tịnh xá Ngọc Quang lẳng lặng trong màn đêm; đại hồng chung tiễn nhân sinh vào cõi mộng.Bận rộn bao việc để chuẩn bị mai lên đường, thế mà đích thân sư bê lên ly bột.
14/04/2021(Xem: 10795)
Đã hơn 45 năm kể từ 1975, nhắc lại chuyện vượt biên quả là xưa như trái đất, xưa quá rồi diễm, nhiều người chẳng muốn nghe, đôi khi còn trách, chuyện qua rồi hãy cho vào dĩ vãng nhắc lại làm gì cho thêm buồn, “quá khứ đã qua, tương lai chưa đến, hãy nghĩ và sống với hiện tại”. Thế nhưng đâu ai hiểu cho rằng, hiện tại của tôi bây giờ chính là phải viết bài cho ngày 30/4 để đăng báo, mà 30/4 vấn đề tuy cũ kỹ nhưng muôn thuở vẫn luôn có giá trị vì đó là lịch sử và chuyện vượt biên cũng đóng góp trong phần lịch sử đó. Luẩn quẩn là như thế. Và biết đâu, giữa khi mọi người đã quên thì tôi nhắc lại cho mọi người nhớ, và biết đâu giúp các thế hệ sinh sau đẻ muộn hiểu chút ít về lịch sử nước nhà trong giai đoạn đau thương của đất nước, thống nhất lãnh thổ nhưng không thống nhất lòng người đã để lại hận thù, chia cách không biết khi nào mới hàn gắn được và là nguyên nhân tại sao cha mẹ ông bà chúng lại lưu lạc xứ người và ra đi làm sao. Cây có cội, nước có nguồn, là con người ai cũng muốn biết c
03/02/2021(Xem: 4191)
Sinh ra tại Edinburgh (Scotland) nhưng Scott Neeson đã chuyển tới Australia định cư khi mới 5 tuổi. Ông là con trai của một lao công và một quân nhân. Năm 17 tuổi, Scott quyết định bỏ học và sống dựa vào tiền trợ cấp thất nghiệp. Nhờ chương trình hỗ trợ của chính phủ, ông được nhận vào vào một rạp chiếu phim là nhân viên kỹ thuật phòng chiếu. Câu chuyện nhẽ ra sẽ kết thúc tại đây nếu không phải Scott là người khá tham vọng và tràn đầy nhiệt huyết. Người đàn ông này kiên trì leo lên từng bậc thang trong ngành điện ảnh, từ một nhân viên phát hành phim đến nhân viên kinh doanh phim. Cuối cùng, mọi công sức của Scott cũng được đền đáp khi ông được bổ nhiệm là Giám đốc Chi nhánh Australia của hãng 20th Century Fox (nay là 20th Century Studios thuộc Disney).
30/01/2021(Xem: 6201)
Thời gian gần đây có khá nhiều nhà văn quay về với đề tài lịch sử. Sự đi sâu vào nghiên cứu cùng những trang viết ấy, họ đã tái hiện lại một triều đại, hay một giai đoạn lịch sử với góc độ, cái nhìn của riêng mình. Tuy nhiên, không phải nhà văn nào cũng thành công với đề tài này. Gần đây ta có thể thấy, Hoàng Quốc Hải với hai bộ tiểu thuyết: Tám triều nhà Lý, và Bão táp triều Trần, hay Hồ Qúy Ly của Nguyễn Xuân Khánh…Và cách nay mấy năm, nhân kỷ niệm lần thứ 40, ngày thành lập Báo Viên Giác (Đức quốc) Hòa thượng Thích Như Điển đã trình làng cuốn tiểu thuyết lịch sử: Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa. Thật ra, đây là cuốn (tiểu thuyết) phân tích, lời bàn về lịch sử thì chính xác hơn.
28/01/2021(Xem: 7380)
Hòa thượng họ Hồ, húy Đắc Kế, Pháp danh Nguyên Công, tự Đức Niệm, bút hiệu Thiền Đức, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ bốn mươi bốn, sinh năm Đinh Sửu (1937) tại làng Thanh Lương, phủ Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận, nay là xã Chí Công, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Nhờ túc duyên tiền kiếp, nên mặc dù không ai khích lệ thúc đẩy, Ngài vẫn một mình cố công tìm đường hướng về với đạo lý giác ngộ. Khởi đầu, Ngài xin xuất gia với Hòa Thượng Thích Minh Đạo tại chùa Long Quang, Phan Rí năm 13 tuổi. Sau đó, trên đường tầm sư học đạo, Ngài cầu học với Hòa thượng Trí Thắng chùa Thiên Hưng và Hòa Thượng Viện chủ chùa Trùng Khánh ở Phan Rang, Hòa Thượng Thiện Hòa ở chùa Ấn Quang, Sàigòn, và Hòa Thượng Trí Thủ ở Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang. Vào năm 1962, Ngài tốt nghiệp Cao Đẳng Phật giáo tại Phật Học Đường Nam Việt chùa Ấn Quang Sàigòn. Song song với Phật học, Ngài cũng c
27/01/2021(Xem: 14968)
Đức Đa Bảo Như Lai 🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng: từ 6.45am, Thứ Sáu, 17/07/2020 (26/5/Canh Tý) Giải thích Nghi Thức Đảnh Lễ Tam Bảo do Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Thủ (1909-1984) biên soạn và hành trì trong suốt cuộc đời của Ngài. 26/ ĐỨC ĐA BẢO NHƯ LAI Nhất thiết vô niết bàn Vô hữu niết bàn Phật Vô hữu Phật niết bàn Viễn ly giác sở giác Nhược hữu nhược vô hữu Thị nhị tắc câu ly. Nhất tâm đảnh lễ Quá khứ cửu viễn thành Phật Đa Bảo Như Lai. (1 lạy) Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia)
25/01/2021(Xem: 29156)
Đức Phật Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na 🌼💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼 Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học bài kệ thứ 23, đảnh lễ Đức Phật Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na, trong Nghi Thức Đảnh Lễ Tam Bả Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng: từ 6.45am, Thứ Ba, 14/07/2020 (24/5/Canh Tý) Giải thích Nghi Thức Đảnh Lễ Tam Bảo do Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Thủ (1909-1984) biên soạn và hành trì trong suốt cuộc đời của Ngài. 23/ĐỨC PHẬT PHÁP THÂN TỲ LÔ GIÁ NA Chơn tánh hữu vi không Duyên sanh cố như huyễn Vô vi, vô khởi diệt Bất thật như không hoa. Nhất tâm đảnh lễ Thường tịch quang độ thanh tịnh diệu pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật. Nơi thể tánh chân như, Pháp hữu vi không thật, Duyên sinh, nên như huyễn; Vô vi không sinh diệt, Cũng không phải thật pháp, Như hoa đốm hư không. Một lòng kính lạy đức Phật Tì Lô Giá Na, Pháp Thân thanh tịnh nhiệm mầu, cõi Thường-tịch-quang. (1 lạy) Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thí
20/01/2021(Xem: 7435)
Bồ Tát Hộ Minh khi ở trên cung trời Đâu Suất, đã quan sát thấy nơi dục giới cõi Ta bà, nhất là nơi Ấn Độ với rất nhiều mối Đạo, phân chia giai cấp trầm trọng, để hòng nô dịch, bóc lột và cai trị người dân, họ chạy theo Ngũ Dục (Tài, sắc, danh, ăn, ngủ) khiến con người bị thiêu đốt bởi lục dục thất tình tiêu cực của chính bản thân mình. Vì vậy, lòng bi mẫn vô lượng thúc giục Bồ Tát Hộ Minh đản sinh vào hoàng tộc Tịnh Phạn vương (trở thành Thái Tử Tất Đạt Đa). Với cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh, nhưng rồi cũng vì lòng Từ bi khi thấy, biết được “sanh. già, bệnh, chết” đang hoành hành gây khổ đau cho thế gian này, nhưng chưa ai giải cứu được, cả vua cha cũng đành bất lực. Ngài đành giả từ hoàng cung, để vào rừng sâu “tìm chân lý”. Mục đích đặc biệt là để “khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến” tức là “Mở bày cho mọi người sáng tỏ được tri kiến Phật”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]