Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Minh sư xuất cao đồ

01/08/201104:30(Xem: 2830)
Minh sư xuất cao đồ


buddhist-monkMINH SƯ XUẤT CAO ĐỒ

Thích Thông Huệ

Ngày xưa, có một người thợ mài ngọc tài hoa vào bậc nhất thiên hạ. Ông từng cầm trong tay biết bao trân bảo, nhưng chưa có viên ngọc nào khiến ông thấy toàn vẹn. Hôm nọ, tình cờ ông bắt gặp một viên đá dị thường nằm chơ vơ trong bụi cỏ. Viên đá rất to, lấm lem bùn đất, thô nhám sù sì, nhưng đôi mắt lão luyện của người thợ bậc thầy đã phát hiện ra một báu vật vô giá. Ông vui mừng đem về, trổ hết tài nghệ dũa mài viên đá. Và kết quả vượt ngoài mong đợi, viên đá thô nhám dơ bẩn đã trở thành viên kim cương tuyệt trần, thế gian hiếm thấy.

Người thợ tài hoa có đôi mắt tinh tường ấy là Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Viên kim cương là chàng trai trẻ Đồng Kiên Cương, tức Nhị Tổ Pháp Loa - Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

Chuyện bắt đầu từ làng quê Cửu La, gần con sông Nam Sách hiền hòa. Người mẹ có 8 đứa con gái, một đêm nằm mộng thấy dị nhân trao cho cây kiếm thần, từ đó hoài thai. Nhà nghèo lại đông con, nếu chẳng may lại sanh thêm đứa con gái nữa, hóa ra cả nhà là một “bầy vịt giời” như lời nhiếc móc của gia đình chồng ư? Thế nên, người mẹ đành lòng uống thuốc phá thai, không chỉ một lần mà những bốn lần.

Thuốc không hiệu nghiệm, cậu bé trai - người con thứ 9 sinh ra giữa vòng tay yêu thương của gia đình nội ngoại. Một mùi hương lạ phảng phất khắp nhà khiến ai nấy nhớ lại giấc mộng ngày nào của người mẹ. Vui mừng được “người trời” giáng hạ làm con, xen lẫn nỗi ân hận vì mê muội suýt phá vỡ hạnh phúc ngọt ngào, người mẹ siết chặt con vào lòng, tự hứa sẽ cố hết sức mình cho con được sung sướng và nên người hữu dụng. Tên Đồng Kiên Cương được mẹ âu yếm đặt cho cậu bé.

Tố chất đặc biệt khác người của cậu bé Kiên Cương bắt dầu lộ ra khi cậu đến tuổi ăn dặm. Để con chóng lớn, người mẹ hàng ngày vớt tép, bắt cá về nấu cháo cho con. Lạ lùng làm sao, cậu bé chỉ mới ăn vào vài muỗng cháo là nôn ra kỳ hết. Lần nào cũng thế, khiến mẹ lo lắng hỏi han khắp chỗ. Nghe lời mách bảo, mẹ bắt mấy con cóc về làm thịt, nấu nướng thật ngon. Cháo cóc múc ra, cả nhà xúm lại dỗ dành cậu bé. Muỗng cháo thơm lừng vừa đưa đến gần, cậu bé đã quay mặt đi, khóc thét lên, dỗ thế nào cũng không nín. Mẹ đành gạt nước mắt, đưa con đến thầy lang nổi tiếng trong vùng.

Vị thầy thuốc già chăm chú nghe người mẹ kể lể, xem mạch cậu bé hồi lâu. Ông nhíu mày suy nghĩ, vẻ mặt băn khoăn. Cuối cùng ông phán:

- Tôi chẳng thấy cháu mắc bệnh gì, nhưng không rõ vì sao cháu không chịu ăn cá thịt, có lẽ cái tạng nó như thế. Thôi thì bà cứ nuôi cháu bằng rau quả xem sao.

Thế là, cậu bé ngay từ thời thơ ấu đã có khuynh hướng trường chay. Không những không dùng thịt cá, cậu còn từ chối các gia vị cay nồng, nhất là hành tỏi. Càng lớn lên, cậu càng khôi ngô đỉnh đạc, luôn dùng lời từ ái nói chuyện với bạn bè thân quyến. Trong nhà ngoài xóm đều yêu mến nể nang cậu bé khác người.

Thời gian thấm thoát trôi qua. Cậu bé Kiên Cương giờ đã trưởng thành. Nhiều nhà ngấm nghé muốn chọn chàng làm rễ quý, nhưng dường như trong mắt chàng chưa có ý trung nhân. Lẽ nào người thanh niên tuấn tú, tràn trề sức sống kia không lúc nào thấy lòng rung động trước hình bóng mỹ nhân? Chàng còn chờ đợi ai, còn kén chọn gì mà 21 tuổi đời vẫn chưa cho dòng họ một mụn con nối dõi? Không có con trai nối dõi tông đường là tội lớn nhất trong ba tội bất hiếu, chàng có biết hay không, mà ngày ngày cứ mãi trầm tư như có điều gì lo nghĩ?

Cũng trong thời gian ấy, Thượng Hoàng Trần Nhân Tông xuất gia, ở trên non Yên Tử. Ngài thường du hành khắp các miền quê, nhưng không cho quan dân bày nghi lễ đón tiếp, sợ tốn kém sức người sức của. Tuy vậy, vì kính trọng và biết ơn Bậc minh quân đem lại thái bình thịnh trị cho đất nước, nên Điều Ngự đến đâu, dân làng tụ họp đông đảo chào mừng đến đó. Điều Ngự dạy dân chúng quy y Tam Bảo, giữ ngũ giới tu thập thiện. Những nơi thờ tà thần hay các sinh thực khí đều bị phá bỏ.

Một ngày đẹp trời, Điều Ngự cùng đoàn tùy tùng đến làng Cửu La, quê hương của Kiên Cương. Chàng trai trẻ đang đi xa, tự nhiên thấy nôn nao lạ. Không hiểu có gì hối thúc khiến chàng phải mau bước quay về. Từ xa, chàng đã thấy đoàn người đông đảo bên bờ Nam Sách, đi đầu là các vị hương chức bô lão, vẻ mặt cung kính như lúc làm lễ rước Thành Hoàng. Kế đến, một đoàn tu sĩ áo nâu, từng bước chân thảnh thơi vững chãi. Dẫn đầu nhóm tu sĩ là một vị đầu đà, dung nghi thoát tục, phong thái siêu phàm. Vừa thoạt trông, Kiên Cương bỗng nhiên chấn động, nước mắt tuôn trào. Dường như lần đầu gặp mặt Điều Ngự lại là lần tái ngộ sau nhiều năm tháng vắng mặt, là sự kết nối duyên Thầy trò nhiều đời. Hai mươi năm qua, vì đời chàng như con thuyền lênh đênh trên sóng nước, không biết đi về đâu. Hôm nay, con thuyền chàng đã tìm được bến đỗ bình yên, một nơi an trú tuyệt vời. Chàng đến trước mặt Điều Ngự, năm vóc gieo xuống đất, tha thiết được xuất gia.

Một khoảnh khắc kinh ngạc khiến ai nấy bất động, nhưng sau đó nhiều người tiến đến, định lôi chàng đứng dậy tránh đường. Điều Ngự ngăn lại, nói với thị giả:

- Đứa bé nầy có đạo nhãn, ngày sau ắt sẽ thành bậc pháp khí.

Ngài ân cần hỏi han tên họ quê quán, rồi cho phép chàng đứng dậy. Tấm lòng Bậc Minh Sư hân hoan vì gặp được đồ đệ vừa ý - một viên ngọc còn trong quặng, nhưng hứa hẹn trở thành trân bảo nếu gặp tay thợ tài hoa. Và chính Điều Ngự sẽ là người thợ có bàn tay vàng ấy. Ngài đặt tên chàng là Thiện Lai, cho thọ giới Sa di và gửi chàng đến Quỳnh Quán học đạo cùng Hòa thượng Tánh Giác.

Sa di Thiện Lai hàng ngày kinh kệ và chấp tác cùng chúng Tăng, nhưng lòng chú không an vì có nhiều thắc mắc chưa giải đáp được. Hòa thượng Tánh Giác đã tận tình chỉ bày cho chú, ân cần trả lời nhiều câu hỏi của chú, nhưng dường như chú còn điều gì đó chưa thông. Một hôm, chú đọc kinh Lăng Nghiêm đến chỗ Thất xứ trưng tâm, hậu khách trần dụ (Bảy lần trình bày tâm, sau cùng đến ví dụ về khách trần), thấy quá lý thú. Xem đi xem lại nhiều lần, chú có chỗ vào nên vội từ giã Hòa thượng Tánh Giác, về tham yết cùng Điều Ngự.

Đến nơi, gặp lúc Điều Ngự đang thăng đường, giảng về bài tụng Ô kê (gà đen) của Thái Dương. Chú ngồi yên, lắng sâu tâm thức. Từng lời của Điều Ngự như dòng nước mát rót vào lòng, rửa sạch mọi cấu uế phiền não từ vô thủy kiếp. Chú tỉnh ngộ, đôi mắt sáng ngời nhìn vị Thầy khả kính. Điều Ngự trên pháp tòa trông thấy, biết người học trò yêu đã có phần tương ưng, đến lúc cần sử dụng phương tiện thiện xảo.

Ngài cho phép Thiện Lai được làm thị giả, sớm hôm hầu hạ, nhưng không chỉ dạy thêm điều gì. Lòng thôi thúc muốn trình kiến giải, chú làm bài tụng Tâm Yếu dâng lên Điều Ngự. Tưởng Sư phụ nếu không có lời khen thì ít nhất cũng gật đầu hứa khả, nào ngờ Ngài không nói một lời, cầm bút sổ toẹt vào bài tụng. Đau khổ, thất vọng chú bước ra khỏi phương trượng, tìm nơi vắng vẻ ngồi suy nghĩ miên man. Vẫn biết mình sở học non nớt, sở ngộ cạn cợt, nhiều nghi vấn chưa giải tỏa tận căn để; Nhưng sao Sư phụ không chỉ đường đi, lại bắt mình mò mẫn trong đêm tối mịt mùng? Vẫn biết Điều Ngự làm gì cũng có dụng ý, Ngài đôi khi cũng lộ ra tình cảm khá đặc biệt đối với mình, nhưng sao bây giờ Ngài lại nghiêm khắc lạnh lùng đến thế?

Đắm mình trong suy tư rồi tự mình an ủi, có lẽ Sư phụ muốn mình tiến tu hơn nữa. Chú lại hăm hở viết thêm bài tụng thứ hai, tin rằng Ngài sẽ hài lòng, vì bài nầy có kiến giải sâu sắc hơn bài trước. Nhưng buồn thay, Điều Ngự chỉ nhìn qua một lượt, rồi lại cầm bút sổ toẹt từ trên xuống dưới. Ngài cũng chẳng có lời nào an ủi, mắt nhìn cũng nghiêm nghị xa xăm. Lần thứ hai, rồi lần thứ ba... không có kết quả gì hơn. Chẳng hiểu thiền sinh Nghĩa Huyền ngày xưa bị Tổ Hoàng Bá đập ba gậy khi hỏi Tổ về Đại ý Phật pháp, có kinh ngạc đau khổ nhiều bằng Sa di Thiện Lai ngày nay không? Vệt bút đen màu mực sổ thẳng trên bài kệ, như nhát kiếm Thái A cắt nát tâm can chú. Trong đầu chú chỉ còn mỗi câu hỏi “Các bài kệ ấy sai ở chỗ nào?”

Đánh liều một lần cuối, chú đắp y chỉnh tề lên đảnh lễ Điều Ngự, xin Ngài vì thương mà dạy bảo. Thưa thỉnh ba lần, Điều Ngự vẫn một mực lặng thinh. Đến lần thứ tư, thấy rõ tâm đồ đệ đã quá thiết tha, Ngài mới buông một câu:

- Của báu nhà mình không từ bên ngoài mà được, hãy tự tham khảo lấy!

Lê chân trở về liêu phòng, lòng nặng trĩu, chú không còn biết làm gì, nghĩ gì. Mọi kiến thức gom góp từ kinh sách, những lần tỉnh ngộ tưởng đã trực nhận bản tâm... tất cả đều chẳng còn mảy may vương vấn. Một mình đối diện với ngọn đèn dầu lạc hắt hiu, chú không biết thời gian trôi qua bao lâu - một phút giây hay một đời người?...

Đã quá nửa đêm, tất cả im ắng, chẳng nghe tiếng côn trùng rả rích, chẳng có tiếng chó sủa đêm. Cơn gió thoảng đầu hè thổi xào xạc, cả ánh sao đêm cũng thôi nhấp nháy. Mọi vật như nín thở đợi chờ giây phút trọng đại. Bỗng dưng, bông đèn tàn rụng xuống tắt ngấm. Bông đèn vụt tắt nhưng tâm vị Sa di trẻ chợt bùng lên ánh sáng nhiệm mầu! Chú hoát nhiên đại ngộ, vội xốc lại y áo, hướng về phương trượng đảnh lễ tạ ơn.

Sáng sớm, Sa di Thiện Lai ra mắt Điều Ngự vấn an rồi trình chỗ sở ngộ của mình. Điều Ngự thầm ấn chứng cho. Lần này, chú được Sư phụ hứa khả vì khi bặt dứt mọi vọng niệm, trí tuệ tự soi chiếu, trí tuệ ấy mới là của báu nhà mình. Từ đó, chú phát nguyện tu hạnh Đầu đà theo gương Thầy. Thế là, chỉ sau một năm xuất gia, chú Sa di đã nhận ra mặt thật xưa nay. Thời gian về sau, vừa tự lợi vừa lợi tha, đúng là Bậc Pháp khí như lời Điều Ngự tiên đoán, trong lần đầu gặp gỡ.

Năm Thiện Lai được 22 tuổi, Điều Ngự cho phép chú thọ giới Tỳ kheo và Bồ tát giới, ban hiệu là Pháp Loa - Loa lớn tuyên thuyết chánh pháp. Và chỉ ba năm sau, Tỳ kheo Pháp Loa đã được Điều Ngự trao truyền Tổ vị. Buổi lễ chính thức truyền y bát, công nhận Tỳ kheo Pháp Loa làm Đệ nhị Tổ Thiền Tông Trúc Lâm Yên Tử, được tổ chức trọng thể tại chùa Siêu Loại. Vua Anh Tông cùng đông đủ triều thần đến tham dự. Từ đây, vị Tỳ kheo 25 tuổi vừa trưởng dưỡng Thánh thai, vừa gánh vác trọng trách kế thừa tông môn, xiển dương đạo pháp.

Trong 22 năm trên ngôi Tổ vị, Thiền sư Pháp Loa đã làm tròn nhiệm vụ một cách xuất sắc. Ngài là người đầu tiên tổ chức Giáo hội Phật giáo một cách có hệ thống, lập sổ bộ Tăng ni và Tự viện trong cả nước. Khả năng của Ngài gồm nhiều lĩnh vực, vừa là một vị Thiền giả có nội chứng, một pháp sư biện tài vô ngại, một bậc giáo phẩm uy nghi; vừa là một học giả trước tác dịch thuật kinh sách; lại vừa là một nhà hoạt động xã hội, nhà kiến trúc xây chùa tạc tượng... Công việc nào cũng được Ngài hoàn thành viên mãn. Bên cạnh đó, Ngài cũng không quên việc lễ Phật, tọa thiền, dù công việc bận rộn đến đâu. Lời phát nguyện chí thành của Ngài thể hiện sự tinh tấn tu hành và lòng từ bi vô hạn đối với chúng sanh: “Chư Phật và chư Bồ tát có những hạnh nguyện gì, con đều tha thiết học hỏi và làm theo. Dù chúng sanh có khen ngợi hay khinh chê, dù bố thí hay xâm đoạt, thì khi gặp mặt hay nghe tên đều xin cứu độ cho tất cả được lên bờ giác”.

Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ, từ trí thức đến bình dân, từ Tăng ni đến Phật tử. Ngài đã góp phần rất lớn vào việc xây dựng và phát triển ngôi nhà Phật giáo Đại Việt nói chung và Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nói riêng, dù chỉ hiện diện trên cõi đời vỏn vẹn 47 năm. Những gì Điều Ngự phó chúc, Nhị Tổ đều thực hiện chu toàn, quả xứng đáng với sự đãi ngộ và tin cậy của Điều Ngự.

* *
*

Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài,
Cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc đi.

Viên ngọc thô Đồng Kiên Cương nhờ tay nghề tài hoa của người thợ bậc thầy Điều Ngự dũa mài nhiều phen, mới trở thành viên minh châu hiếm thấy. Nếu không có Minh Sư Điều Ngự, làm sao Phật giáo đời Trần có được bậc Cao Đồ Pháp Loa? Cho nên có thể nói, Nhị Tổ gặp Điều Ngự là một phước duyên hãn hữu; ngược lại, Điều Ngự có được đồ đệ như Nhị Tổ là một điều đắc ý vào bậc nhất của Ngài.

Thiền Viện Trúc Lâm Viên Ngộ
Phan Rang - Ninh Thuận

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7790)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8667)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7473)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6353)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 7288)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5441)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 4090)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8969)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 23574)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4794)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]