Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người lái buôn và con lừa

11/11/201017:22(Xem: 3941)
Người lái buôn và con lừa
 

donkeyCó lần Đức Phật kể cho các vị Tỳ- kheo nghe một câu chuyện tiền thân như sau:

Ngày xưa có một vị lái buôn tên là Kappata. Ông có một con lừa chuyên chở hàng gốm, mỗi ngày ông thường đi một cuộc hành trình dài bảy lý (khoảng 30km). Một dịp nọ Kappata chất hàng hoá lên lưng lừa và đi đến Takkasila. T
rong khi bận rộn sắp xếp những hàng hoá bày ra bán, ông để cho con lừa được chạy đi rông thoải mái. Khi chú lừa lang thang dọc theo bờ mương, chú nhìn thấy một chị lừa cái và chạy thẳng đến cô nàng. Chị lừa cái cho anh ta một một lời chào rất thân thiện và nói:
- “Anh từ đâu đến?”
-“Từ Ba-na-nại (Benares)”
-“Về việc gì?”
-“Mua bán.”
-“Anh mang khối hàng lớn bao nhiêu?”
-“Một khối hàng gốm lớn.”
-“Mang một khối hàng lớn như thế anh đi được bao nhiêu lý?”
-“Bảy lý.”
-“Những nơi khác anh đến, có ai bóp chân và đấm lưng cho anh không?”
-“Không.”
-“Nếu vậy thì anh hẵn đã phải trải qua một thời giancực kỳ gian khổ đấy nhỉ!”
Vì lời nói của cô nàng, mà chú lừa trở nên bất mãn. Sau khi người lái buôn đã sắp xếp xong hàng hoá của mình, ông trở lại với chú lừa và nói với nó:
-“Này con, Jack, chúng ta hãy đi về.”
-“Ông đi một mình đi, tôi không đi đâu.”
Bằng những lời dịu dàng, người lái buôn cố gắng thuyết phục chú lừa nhiều lần; và khi, bất chấp những cố gắng của ông, chú lửa vẫn giữ thái độ bướng bĩnh, ông quở trách nó. Cuối cùng ông nghĩ trong bụng, “Ta biết có cách làm cho nó đi.”Và nói lên bài kệ sau:
Ta sẽ làm gậy gọn
Mũi gai mười sáu inh (-xơ)
Cắt mi thành từng miếng;
Biết điều hỡi lừa kia.
Khi nghe như thế, chú lừa nghĩ, “ Nếu vậy thì tôi sẽ biết cách phải làm gì với ông.”Và nó cũng đáp lại bằng bài kệ sau:
Ông nói làm gậy nhọn,
Mũi gai mười sáu inh (-xơ)
Được lắm!
Tôi sẽ chống chân trước,
Tung bổng hai chân sau,
Hất ông ngã gãy răng;
Biết điều, hỡi Kappata.
Khi người lái buôn nghe thế, ông tự nghĩ, “ Lý do gì khiến hắn nói như thế?”Người lái buôn nhìn tới nhìn lui, và cuối cùng ông thấy con lừa cái, “ À té ra,“ ông lái buôn nghĩ bụng, “Cô nàng chắc hẳn đã dạy cho nó những mánh lới này đây!”Ta sẽ nói với lừa, “Này con, ta sẽ mang về nhà cho con một cô vợ giống thế.”Như vậy, nhờ dùng miếng mồi nữ nhân, ta sẽ làm cho hắn đi.
Do đó ông tuyên bố bài kệ sau:
Một chị lừa cái mặt như ngọc
Có tất cả tướng của mỹ nhân.
Ta sẽ cho con để làm vợ,
Hãy biết điều này, hỡi lừa kia.
Khi chú lừa nghe nói vậy, lòng nó vô cùng hân hoan, và trả lời chủ bằng bài kệ:
Lừa cái, mặt như ngọc
Đầy đủ tướng mỹ nhân,
Cho tôi làm vợ sao!
Vậy thì, Kappata
Trước giờ đi bảy lý,
Sau này sẽ tăng lên
Mười bốn lý một ngày!
“Tốt lắm!”Kappata nói, “Hãy đến đây!”Và ông dắt lừa cùng đi với ông trở lại chỗ để xe.
Sau vài ngày con lừa nói với ông, “Chẳng phải là ông đã nói với tôi ta sẽ mang về cho con một người vợ sao?”
Người lái buôn trả lời, “Đúng ta có nói như thế, và ta sẽ không nuốt lời hứa; ta sẽ mang về nhà cho con một cô vợ. Nhưng phải nhớ là ta sẽ chỉ cung cấp thức ăn cho một mình con. Thức ăn ấy, có thể đủ hoặc cũng có thể không đủ cho cả hai, con và vợ con, nhưng đó là vấn đề tự con quyết định. Sau khi hai đứa sống với nhau, những chú lừa con sẽ được sinh ra. Thức ăn ta cung cấp cho con cũng có thể đủ hoặc không đủ cho hai vợ chồng và con cái của con đâu đấy, nhưng vấn đề tuỳ thuộc một mình con quyết định.”
Khi người lái buôn nói những lời ấy, chú lừa mất hết cả hứng thú.
Vào cuối câu chuyện, Đức Phật nói rằng người lái buôn lúc ấy chính là Ngài, chú lừa là Nanda, và chị lừa cái là Janapadakayani, người vợ sắp cưới của của Nanda.
Theo: Vượt qua chướng ngại
Tác giả: Pa Auk Sayadaw

Nguồn: timhieudaophat.com

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/09/2013(Xem: 7716)
Khi bước xuống thuyền vượt biên ai cũng mang đầy hy vọng, mơ ước... Có kẻ mơ ước một tương lai xán lạn ở chân trời mới, có người chỉ mong những giấc mộng bình thường: Ngày hai bữa đủ no, tự do yên ổn...
11/09/2013(Xem: 4243)
Hân tra chìa khóa, mở cửa bước vào phòng làm việc. Căn phòng khá rộng. Diện tích gấp hai sân bóng rổ hầu hết chứa kệ vải. Ở một góc sát cửa sổ nhìn ra ngọn đồi cỏ là chỗ làm việc của Hân với Susan, chiếm 1/6 căn phòng, có một bàn dài, kế đó là những dãy kệ chứa nú
11/09/2013(Xem: 4754)
Hằng năm vào tháng mười, sinh nhật tôi, tôi có thông lệ, trước tiên là tự nhắc mình đóng tiền niêm liễm đến Văn Bút Âu Châu (tôi là hội viên mà), kế đó là cố nặn óc tìm một truyện ngắn về đề tài Sinh Nhật coi như món ăn tinh thần "đãi" quí vị độc giả.
10/09/2013(Xem: 6177)
Một lần nữa, chẳng quản đường xá xa xôi, thời gian, công sức, tôi tìm về tu viện Viên Đức Đức quốc không những gặp lại nhị vị Đại Đức Thích Hạnh Đức, Đại Đức Thích Hạnh Tuệ, tôi đã may mắn tiếp thụ tài thuyết giảng của hai Thầy; một người giảng thật nhẹ nhàng nhưng sâu, một người giảng lôi cuốn hấp dẫn trong khoá tu học do anh em Gia Đình Phật Tử Thụy Sĩ tổ chức vào dịp lễ Phục Sinh hằng năm vừa qua, mà còn hân hoan chào đón thêm 6 vị trong phái đoàn “Hoằng Pháp Âu Châu” do Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển tổ chức, một lực lượng hùng hậu chưa từng có từ trước đến nay. Nhìn trong danh sách giảng huấn của phái đoàn, tôi gọi đùa, toàn “Cao thủ võ lâm!” mặc dù không ai là võ sĩ cả mà là tu sĩ!
10/09/2013(Xem: 7670)
“Hậu sinh khả úy“ (kẻ sanh sau thật đáng nể sợ) là câu nói của ngài Khổng Tử, một triết gia Trung Hoa thốt ra khi ngài cùng học trò đi dạo thấy một em nhỏ vọc gạch cát xây thành giữa lối đi, ngài bảo: “Tránh chỗ cho xe ta qua“. Đứa nhỏ đứng dậy, đáp: “Xưa nay, xe tránh thành, chứ thành nào lại tránh xe“. Thấy đứa nhỏ đối đáp thông minh, Khổng Tử xuống xe cùng bé trò chuyện, đưa ra nhiều câu hỏi rất khó khăn, đứa bé đều trả lời thông suốt
09/09/2013(Xem: 5194)
Đối với những ai đã từng ghé Ấn Độ, nghe ngóng, tìm hiểu, quan sát, hẳn không xa lạ gì với thế giới của lực lượng Tăng Ni sinh viên Việt Nam đang du học tại đó. Nhưng với riêng tôi, cho mãi năm 2011 trong chuyến hành hương Tích Lan, tôi mới thực sự biết được bằng mắt thấy tai nghe thế giới lạ đó qua sự giới thiệu của Hòa Thượng Phương Trượng chùa Viên Giác về bốn sinh viên tu sĩ, học tăng từ Ấn Độ.
09/09/2013(Xem: 5255)
Nói đến, viết đến các khóa học Âu Châu, bao năm qua cây viết của tôi đã gần mòn, đã có nhiều bài viết về khóa học, viết đến độ không còn gì để viết. Nào ăn, nào ngủ, nào học, nào chơi... đủ cả. Khỏe cả bên trong, tốt lẫn cả bên ngoài. Thế thì lần này sẽ viết về gì đây?! Xin thưa, viết về “Thiên Đường Hạ Giới“ ạ.
06/09/2013(Xem: 4344)
Từ chùa Từ Đàm, tôi trở lại khóa học, nơi tổ chức khóa tu Âu Châu của mười ngày qua. Sân trường giờ vắng hoe. Thảm cỏ xanh dẫn ra con đường lớn, không còn một bóng người. Vài băng ghế nằm rải rác trên sân cỏ cũng đìu hiu như nhớ, như chờ ai. Bên trong trường học lưa thưa sót lại một số người đang dọn dẹp và một số đang đợi chuyến bay cho ngày hôm sau khi khóa học bế giảng. Hằng ngàn người, mới đó mà...biến mất. Biến như một cơn gió thoảng qua.
06/09/2013(Xem: 8586)
Lý số, đông y là nghề của bố chồng tôi. Không rõ nhờ cụ thực tài hay tại hành nghề miễn phí, không nhận thù lao của khách nên khách của cụ khá đông. Một ngày, năm đó tôi vừa 23 tuổi, có một vị khách đặc biệt đến nhà giữa lúc bố tôi đi vắng. Vị khách tướng tá khác phàm, râu tóc bạc phơ, cốt cách như một tiên ông. Cụ mặc chiếc áo dài the, đầu đội khăn đóng như bố chồng tôi vậy, tay cụ cầm gậy trúc và tự xưng là bạn của bố tôi mặc dù xưa nay tôi chưa hề gặp cụ bao giờ. Tôi mời cụ vào nhà.
29/08/2013(Xem: 10008)
Năm 1983: chúng tôi cạn kiệt khi mua xong đất làm tự viện mà còn thêm nợ nữa. Mảnh đất thật trơ trọi, không nhà cửa, một túp liều cũng không, Suốt mấy tuần lễ đầu chúng tôi phải ngủ trên cánh cửa cũ mua rẻ trong bãi phế liệu. Chúng tôi kê bốn góc gạch làm giường (dĩ nhiên làm gì có nệm – chúng tôi tu ở rừng mà!).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]