Tôi đang loay hoay quét mạng nhện trên trần nhà, chuẩn bị một cuộc tổng vệ sinh nhà cửa để đón cái Tết cổ truyền, chào mừng năm mới theo lệnh của cha. Út Huy đi học về lúc ấy, mặt chằm quằm một đống, liệng chiếc cặp lên chiếc ghế salon... rồi ngồi phịch xuống kế bên, thở dài nghe não ruột. Tôi ngưng tay chổi ngó nó từ đầu tới chân. Nó lấm la lấm lét nhìn tôi, lúng búng: “Anh Ba... anh Ba...” Đưa mắt nhìn nghi ngại, tôi bắt gặp ngay chuyện không vui. Hơi lo, tôi làm bộ hỏi: "Thì tao là anh Ba đây, có gì là lạ đâu? Mày sao vậy? Sao mà... như bị mất hồn vậy?” Chừng như thằng nhóc chỉ chờ tôi hỏi vậy, nói ngay: “Lão thầy đánh em, anh Ba à!” Tay nó xoa lấy mông, nước mắt lưng tròng.
Trời ạ, thằng học trò quỷ sứ lại dám gọi thầy giáo chủ nhiệm của mình bằng "lão thầy" thì... hết nước nói. Nhưng chuyện gì vậy chớ? Tôi chống nạnh, hỏi gằn: “Sao ổng đánh” “Tự nhiên à!” “Tự nhiên?” Tôi nổi cáu “Phải có nguyên nhân chớ. Vô lý!” Út Huy im thin thít. Nó lãng tránh đôi mắt đang trợn trừng long lên song sọc của tôi. Tôi nạt: “Mày quậy trong giờ học phải không? Hay đánh lộn với bạn, hay không thuộc bài? Nói thật đi, nói!” Út Huy ấp úng: “Em... em... không thuộc bài! Bài tập ở nhà cũng... quên làm!” “Ờ, phải rồi. Bài không lo học, bài tập thì quên làm. Thời giờ mày dùng để làm gì hả? Chắc là chưa gì đã lo lên kế hoạch ăn Tết rồi phải không?” “Em... em...” “Mắc coi phim Thiên Long Bát Bộ, hay Tân Bao Thanh Thiên?” “Đâu có! Em chơi... chơi...” “Chơi Gêm On-lai chớ gì?” Đâu có, em chơi tem sưu tập mà!”. “Hứ... Tem, tem, tem… Lúc nào cũng mày mò máy mó sờ sẫm săm soi mấy con tem động vật. Ai cấm mày chơi tem đâu, nhưng chơi phải có giờ có giấc, vừa chơi vừa học thì mới là chơi bổ ích lành mạnh. Thầy đánh cũng vừa rồi, méc với tao làm chi, tao đánh thêm cho no luôn. Bộ mày muốn tao ra tay báo thù hả?” “Chớ sao, phải báo thù cho em, anh Ba ơi!” Tôi há hốc mồm nhìn nó. Trời ạ, lại Trời ạ, nhìn cái bản mặt nó thì tôi biết ngay là nó không nói đùa nói chơi, nó nói thật tâm thật lòng kia kìa. Tôi nổi khùng: “Tao như vậy mà đi đánh thầy báo thù cho mày hả?” Út Huy nhìn tôi chăm chăm, nói thản nhiên: “Anh to con, khỏe mạnh, lại có nghề, chắc là hạ gục lão thầy ốm tong ốm teo đó dễ òm mà. Ngán gì, anh Ba?” Tôi nắm lấy vành tai nó, véo một cái, rồi gằn giọng: “Tao cấm mày ăn nói mất dạy nghe chưa! Thầy cô là cha mẹ ở chốn học đường, mày là thứ con cái hư hỏng bê bối, ăn đòn cho chừa thôi!” Thằng nhóc nức nở: “Nhưng... ổng đánh em... đau quá tàn nhẫn quá... hu hu...” Tàn nhẫn? Thằng con nít này mà cũng biết cái chữ ghê rợn vậy ta? Không lẽ vị thầy kia đã cho nó một trận mưa sa bão táp khủng khiếp đến độ làm cho nó phẫn uất như vậy? Tôi hơi chột dạ, xoa đầu thằng em máu mủ của mình, hỏi: “Ổng đánh dzữ lắm hả? Đánh bằng gì?” “Đánh bằng... hu hu… bằng cây thước gỗ... ba cái... muốn tét đít... hu hu...” Tôi xoay người Út Huy lại, kéo quần nó xuống nhìn thử xem tỉ lệ thương tích "đạt" đến cỡ nào. Trên làn da trắng nõn của thằng nhóc hằn lên ba dấu, nói đúng hơn là ba lằn đỏ bầm. Tôi giật thót mình, ruột gan tim phổi như bị ai nắm bóp. Thầy giáo đã quá tay rồi! Không thể chấp nhận được mức độ "sát thương" đến cỡ đó. Thầy giáo không được quyền "xâm phạm" thân thể của học sinh đến tét thịt tóe máu như đang hiện ra trước mắt tôi, cho dù thằng Út Huy có mắc phải sai lầm nghiêm trọng. Đầu tôi nóng bừng lên. Hai bàn tay theo phản xạ tự nhiên nắm thành hai nắm đấm rung lên khe khẽ. Tôi không còn là tôi nữa trong khoảnh khắc ấy. Hơn lúc nào hết, tôi muốn gặp "lão thầy" kia ngay lập tức. Tôi hỏi với giọng run run chất chứa đầy căm giận: “Giờ này ổng còn ở trường không?" Thằng nhóc lắc đầu, buồn bã: “Ổng về rồi. Bữa nay là buổi học cuối học kỳ I, ngày mai nghỉ Tết rồi anh Ba ơi... Anh Ba để đến chiều, hoặc tối, đi tìm lão thầy để báo thù cho em!” Chiều tối? Chiều tối thì sợ tôi không còn giận nữa. Nguôi giận rồi thì huề cả làng. “Nhà ổng ở đâu biết không?” “Xa lắm. Để chiều em dẫn anh đi!” Chiều? Không được. Hai nắm tay của tôi đang ngứa ngáy. Chúng thèm khác được làm việc. Làm việc ngay tức khắc chứ không thể chần chừ thêm giây phút nào nữa. Tôi đấm vào không khí một hơi đến mười cái "xé gió" kêu vù vù... Và, bỗng nhiên tôi thấy lòng nhẹ tênh, đầu nhẹ hều mát mẻ, hai cánh tay tôi buông thõng xuống như cạn kiệt sức lực. Tôi chợt ngẩn người ra nhìn vào một cõi xa vời vợi. Ở nơi ấy, kỷ niệm xưa thời còn ngồi trên ghế nhà trường đang đủng đỉnh dạo chơi giữa hương đồng cỏ nội mênh mông thật hiền hòa. Kỷ niệm về một cú cốc đầu mà một người thầy đã tặng cho tôi, đang đưa tay vẫy gọi, và chạy đến chạy đến thật nhanh…
Năm học lớp 7, tôi là trưởng lớp, học xuất sắc mọi môn, lại rất ngoan hiền. Giờ Hóa, thầy phụ trách môn nghỉ dạy vì bệnh, thầy Chi đến dạy thay tạm thời gian. Đầu bài giảng mới, thầy Chi hỏi: “Ký hiệu hóa học của thủy ngân là...là...” Thầy bỏ lững để chờ cả lớp đồng thanh trả lời. Nhưng lớp học im re. Thầy chỉ một bạn ngồi bàn đầu, rồi lặp lại câu hỏi: “Ký hiệu hóa học của thủy ngân là ...?” Bạn ấy lúng búng: “Thưa thầy... chưa học đến ạ!” “Sao lại chưa? Đã học qua chưa, cả lớp?” thầy bực bội hỏi to. Tiếng lật vở giở sách sột soạt. Không đối đáp. Thầy chỉ vào tôi, hỏi gằn: “Học chưa?” Tôi lúng túng đứng dậy, run rẩy trong khi cố moi trí nhớ đang hỗn độn của mình. Không nhớ nổi. Thật kỳ lạ đến tức tối. Giọng thầy Chi lại vang lên: “Ký hiệu hóa học của thủy ngân, học chưa?” “Thưa thầy chưa ạ!” tôi đáp đại. Thầy Chi bước lại cầm cuốn vở Hóa của tôi lật xem. Sột soạt, sột soạt … Rồi thầy đưa cuốn vở trước mặt tôi, chỉ vào và hỏi: “Chớ cái gì đây? Cái gì đây?” Tôi hoa mắt lên nhìn vào những chữ viết của chính mình đang nhảy múa trên trang vở. Trong cuộc nhảy múa tập thể tưng bừng của chữ nghĩa ngôn từ ấy, đang có sự hiện diện của Hg, ký hiệu hóa học của thứ thủy tinh chết tiệt kia. Tôi tái mặt, cứng họng. Và, lãnh liền một cú cốc ngay trên đầu tá hỏa tam tinh, tứ mặt trời. Phải, thầy Chi đã cốc tôi trên đầu! Chưa hết, thầy đanh giọng quát lên: “Cả lớp quỳ hết lên ghế. Quỳ cho hết giờ!” Lũ chúng tôi quỳ lên ghế. Có đứa cười khúc khích, có đứa tủm tỉm, dường như lấy làm thích thú với cảnh quỳ tập thể hiếm xảy ra. Tôi thì muốn mếu khóc. Thầy Chi bước lên bục giảng, quét mắt nhìn quanh, hỏi: “Trưởng lớp đâu?” Trời ạ! Tôi muốn chui ngay xuống gầm bàn. Các bạn chỉ tôi. Thầy mỉa mai: “Té ra là ông thần này. Sao nghe nói ông trưởng lớp 7B giỏi ngoan lắm mà?" Tôi cúi gằm mặt xuống. Tai nghe ong ong. Cả khuôn mặt tôi lúc ấy như chảy xệ xuống tới... bụng. Tôi quỳ, và muốn quỳ suốt trăm năm để tự trừng phạt mình cái tội chểnh mảng lơ đễnh trong học tập. Thầy đã cho cả lớp ngồi xuống, kèm theo lời cảnh cáo. Cuối giờ, thầy gọi tôi lại khi cả lớp đã ra khỏi phòng. Nhìn tôi bằng đôi mắt hiền từ, thầy hỏi: “Có đau lắm không?” “Thưa thầy... đau ạ. Nhưng em đáng tội, không oan ức đâu ạ!” Thầy nhoẻn miệng cười: “Phải như em trả lời học rồi mà quên, thì thầy đã không nổi nóng. Em lại đáp rất chắc chắn, quả quyết. Thầy nóng quá, lỡ nặng tay với em, khi xong rồi thầy mới thấy hối hận. Bậy quá, thầy xin lỗi em vậy nhé!” “Thưa thầy”, tôi xúc động muốn khóc “em... em... không sao đâu ạ!”
Từ hôm ấy, đến tận hôm nay, đã hơn ba mươi lăm năm tôi vẫn nhớ rõ mồn một. Trong suốt thời gian dài dằng dặc ấy, nếu có một ai bất chợt hỏi tôi: "Ký hiệu hoá học của thủy ngân là gì?", tôi sẽ "độp" ngay tức khắc: "Hg". Hỏi đột ngột một tỉ lần, tôi sẽ đáp trúng phóc và cực nhanh một tỉ lẻ một lần, không nao núng, không lưỡng lự, và cũng không cần nghĩ ngợi một tích tắc nào. Không phải chỉ nhớ Hg, mà nhớ rất nhiều, gần như là nhớ tất cả những gì cần nhớ đã thu thập được từ học đường. Nhớ, là nhờ cú cốc đầu đáng nhớ ấy. Tôi thở dài, quay nhìn Út Huy. Nó đang trông chờ, hy vọng tràn mắt. Tự dưng cơn giận quỷ quái trong tôi trỗi dậy, tôi hằn học xổ một tăng: “Thầy đánh cho mày khôn ngoan lên. Thương thì mới đánh, ghét thì bỏ thí cho mày tự do lêu lổng. Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi, hiểu chưa?" Thằng nhóc ngơ ngác sững sờ. Tôi tiếp: “Mày phải cảm ơn thầy. Tao cũng phải cảm ơn thầy đã dạy mày. Mày đừng có xúi dại, tao xém chút nữa đã trở thành thằng mất dạy, vô giáo dục rồi!” Út Huy kinh ngạc. Chắc nó nghĩ rằng tôi bị chạm dây, nên vội bước lùi ra sau, đứng ở góc nhà lấm lét nhìn thằng anh "to con giỏi võ" của nó. Đúng lúc đó, một người bước vào nhà. Tôi đưa mắt nhìn. Lạ hoắc. Ai vậy kìa? “Ổng đó, anh Ba!” thằng nhóc reo lên vừa mừng, vừa sợ. “Ổng”? A... thì ra là người đã ban tặng cho thằng út em tôi ba lằn roi nơi mông. Tôi sững sờ, không biết phải làm gì và nói gì, chỉ trố mắt nhìn khách chăm chăm. Tôi thấy "ổng" đang cầm trên tay một gói quà gói giấy hoa trang nhã, dường như là một cuốn sách gì đó. "Ổng" bước lại trước tôi, nói với giọng buồn hiu nghe muốn não lòng: “Tôi là thầy giáo chủ nhiệm lớp của em Huy. Tôi đến đây để xin lỗi cùng gia đình, xin lỗi em Huy, tôi không kìm được cơn nóng nhất thời, nên đã mạnh tay với em. Giá như em Huy đừng có nhảy né, múa võ... thì chuyện đáng tiếc đã không xảy ra. Tôi ân hận quá. Thành thật xin lỗi cùng phụ huynh!” Giọng thầy đều đều vang lên. Tôi cảm thấy như gió mát trong lành vào tận nhà. Tôi mỉm cười: “Dạ, Không sao đâu thầy ạ!”
Tôi nói thật lòng. Rất thật lòng. Và tôi vừa sực nhớ đến... cú cốc đầu năm nào. Thầy bước lại bên út Huy, giọng nhỏ nhẹ: “Thầy xin lỗl em nhé... Vì ngày mai trường đã nghỉ Tết, thầy trò ta không gặp nhau trong những ngày tới, thầy đến đây trước là xin lỗi em, sau là... tặng em món quà mừng Xuân mới nho nhỏ, mong rằng em không giận thầy, bỏ qua hết chuyện năm cũ này đi nhé?” Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm, mà không nói thêm lời nào. Khi thầy chào từ giã ra về tôi nhào tới chỗ Út Huy ngay. Thằng nhóc lộ vẻ thích thú khi mở lớp giấy hoa xem quà. Trong đó là hai cuốn sách. Một cuốn có tựa đề: "Tam hồn cao thượng" còn mới keng. Cuốn kia là cuốn sách cũ được xuất bản trước năm 1975, tựa đề: “Nghệ thuật chơi tem” của Nguyễn Bảo Tụng. Thằng nhóc lật xem thử bên trong, đã không lộ chút vui mừng, còn nguýt mắt bĩu môi nói: “Tưởng tặng cho cuốn truyện tranh chớ, tặng gì mấy cuốn này!”.
Tôi cốc nhẹ lên đầu nó, nói: “Đồ ngốc. Mấy cuốn sách này đáng giá nghìn vàng đó mày! Mày mới thật là hạnh phúc, thật hạnh phúc khi được một người thầy chủ nhiệm quan tâm sâu sát, nắm bắt được sở thích của học trò mình như vậy. Lo mà làm sách gối đầu giường, đem ra đọc rồi nghiền ngẫm ba ngày Tết đi em!”
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem).
Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc.
Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông.
Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này.
Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung.
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn.
Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.