Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nỗi buồn lưu vong

07/04/201711:13(Xem: 3355)
Nỗi buồn lưu vong


30 thang tu
Nỗi buồn lưu vong
Nguyên Hạnh HTD

 

 

      Ba mươi tháng Tư lại về!

      Những tưởng những năm tháng lưu đày nơi xứ người đã làm chúng ta khô cằn như sỏi đá, những tưởng những ngày tháng lao đao theo cuộc sống với tuổi đời càng chồng chất đã làm cho chúng ta quên dần những ngày tháng cũ. Nhưng không, những ngày lưu vong vẫn còn đậm nét u hoài trong lòng tôi mãi mãi.

      Tôi luôn luôn ngậm ngùi nhớ lại ngày nào, tuy đã chuẩn bị trước ngày ra đi cả tháng trời, đến phút ra đi lòng tôi vẫn bàng hoàng bối rối. Trong đời, tôi đã gặp nhiều cuộc chia ly nhưng đây lại là cuộc chia ly trọng đại cho cả một gia đình. Cái cảm giác mất mát cứ ám ảnh tôi suốt cả những tháng ngày chờ đợi. Dù những người thân yêu ruột thịt, cả bạn bè quyến thuộc đang xúm xít quanh tôi, vậy mà tôi vẫn thấy mình đang để vuột khỏi tầm tay  với của mình tất cả. Tôi muốn nói, muốn làm một cái gì đó cho người ở lại, vậy mà tôi cứ lừng khừng như kẻ vô tình, ngơ ngẩn như một người mộng du.

      Sân bay đông nghẹt kẻ đi và người đưa tiễn. Tiếng cười nói, tiếng khóc, tiếng chào xôn xao, rộn rịp vậy mà tôi vẫn thấy chập chờn, lao xao như đang ở trong mơ. Đúng là tôi đang mơ, một giấc mơ dài và phút biệt ly thực sự bắt đầu! 

      Tôi đi vào phòng cách ly với những bước chân ngỡ ngàng, không dám nhìn lại người thân với những khuôn mặt đầm đìa nước mắt, với những nụ cười tiễn biệt đang chới với vẫy tay. Vậy là tôi mất tất cả. ôi. Cảnh biệt ly sao mà buồn vậy.

      Cánh cửa máy bay đang rộng mở, cánh cửa của thiên đường hay cánh cửa của một tương lai vô định? Cho đến lúc này tôi cũng không hiểu được, tôi rời bỏ quê hương, giã từ tất cả quen thuộc, thân thương để được gì đối với cái tuổi " ngũ thập tri thiên mệnh" của mình? Chỉ có một câu trả lời đơn giản là tôi không chấp nhận được chế độ Cộng sản vô nhân và với tinh thần muốn được sống trong một đất nước đầy Tự do và Nhân bản. Tôi còn gì cho tôi khi phủi áo ra đi?

      " Một đi là chuốc nghìn thương nhớ"

      Và trong tôi chỉ còn lại nhớ cùng thương.

      Cánh cửa máy bay đóng lại, một lần nữa ngăn kẻ ở và người đi. Tiếng động cơ ầm ĩ chuyển động cũng không bằng tiếng gào thét của lòng tôi. Thân máy bay nâng lên, nâng lên cả ngọn triều thương nhớ.

      Dù muốn dù không, chuyến bay đã bay đi và đã hạ xuống phi trường Bangkok vào lúc mới hừng đông: Đúng là hình ảnh của một nhóm người lưu vong ngơ ngác giữa một sân bay xa lạ. Người hướng dẫn đưa chúng tôi vào một căn trại thô sơ, gồm những băng ghế dài, một bàn làm việc. Tôi có cảm giác như đang bước vào một hội trường ở quê nhà.

      Cả trăm người lếch thếch nằm ngồi, hành lý ngổn ngang đang chờ nghe hướng dẫn và làm thủ tục. Buổi cơm trưa gồm một hộp cơm nhỏ cho mỗi khẩu phần và lại đợi chờ. Sự chờ đợi tưởng như bất tận cho đến 5 giờ chiều mới có lệnh xếp hàng để ra xe đến trại chuyển tiếp. Xôn xao, ồn ào và vẫn có một số người không bỏ được thói quen chen lấn, tranh dành chỗ tốt. Gia  đình tôi thuộc loại " chậm chân " và ưa nhường nhịn nên lúc nào cũng xếp hàng cuối. Và thế là cùng với những gia đình có con mọn, chúng tôi lọt lại đằng sau, đứng ngồi hỗn độn giữa đường để chờ chuyến xe khác.

      Lại một hộp cơm mỗi người cho buổi chiều. Chúng tôi ngồi bệt giữa lòng đường, dưới ánh sáng vàng vọt của nắng chiều sắp tắt. Cùng với ánh đèn đường, chúng tôi ngồi xúc cơm ăn như một đám khất thực, chợt nhớ đến Vu Lan vừa tổ chức xong trước ngày đi, tôi buột miệng " mình đi vào tháng 7 có khác ". Quả tình, chúng tôi thảm thương như đám cô hồn tháng 7.

      Đến 8h30 tối, chuyến xe kế tiếp mới đưa chúng tôi đến trại kế tiếp. Cảm giác đầu tiên khi đặt chân đến đây là sự chán nản và tủi nhục. Gần 200 người với mớ hành lý ngổn ngang, mỗi gia đình choáng một khoản nền nhà nằm ngồi hỗn độn. Mỗi người được phát một chăn len thay cho cả gối cùng chăn. Và thế là qua một đêm trên đất người với sự ấm ức phiền muộn. Một ngày đầu ly hương không gây cho tôi một ấn tượng tốt đẹp nào. Suốt một đêm thức trắng để chuẩn bị chuyến đi và một ngày dài chờ đợi, chúng tôi đã thiếp đi trên sàn nhà lạnh với giấc ngủ mệt nhoài. Và tỉnh dậy, đón một ngày kế tiếp với mặc cảm của một con người lưu vong.

      Suốt những ngày lưu lại ở trại chuyển tiếp, chúng tôi hết xếp hàng đứng nghe hướng dẫn thủ tục nhập cư, lại ngồi bệt trên sàn nhà để học tập nếp sống văn minh của xứ người v..v.. chỉ quanh quẩn trong khuôn viên của trại, mỗi ngày được phát hai bịch cơm, mỗi bịch gồm hai trứng  gà luộc và một bịch canh nhỏ xíu. Và, " một ngày như mọi ngày", chúng tôi phát ngấy lên với món trứng gà luộc, cho đến 5 ngày sau mới được gọi xếp hàng, chuẩn bị khám sức khỏe, đi chuyến bay đến Frankfurt, sau đó đổi máy bay về  München.  

      Chúng tôi mừng như vớ được của, rối rít thu xếp hành lý trước con mắt thèm thuồng của những người bị trục trặc giấy tờ hoặc hoàn cảnh gia đình phải tiếp diễn những ngày gò bó trong trại chuyển tiếp này. Chúng tôi lên xe ra sân bay từ 6h chiều mặc dù 3h sáng hôm sau mới có chuyến bay. Vậy là lại những giây phút chờ đợi và mất ngủ đến rã cả người.

      Những chuyến bay kế tiếp này đã xóa bỏ bớt mặc cảm tủi nhục trong tôi. Những tiếp viên phi hành đón tiếp chúng tôi lịch sự, niềm nỡ, không có gì phân biệt với các hành khách khác. Và chuyến bay cuối cùng đã hạ cánh, chấm dứt cuộc hành trình.

      Gia đình tôi đã được con trai cùng rất đông cộng đồng đón tiếp, tiếng chào hỏi, nói cười ầm ĩ, vui vẻ. Những máy ảnh đưa lên, máy quay phim quét ngang quét dọc. Sự niềm nỡ của mọi người đã đánh tan bớt mặc cảm lạc lỏng của chúng tôi trong suốt chuyến bay vừa rồi.

      Khi mọi người đã ra về hết, chỉ còn lại gia đình tôi trong căn phòng của trại định cư, tôi mới như người vừa chợt tỉnh giấc mơ, ý thức rõ ràng rằng cuộc sống mới đã thực sự bắt đầu. Nhưng trong tôi vẫn còn cảm giác bàng hoàng ngơ ngẩn. Tôi không còn gì để mà có và cũng không có gì để mà mất. Có chăng chỉ là nội tâm ray rức của một con người vừa lìa bỏ những người quen thuộc thân thương để nhận lấy những ngỡ ngàng xa lạ của cuộc sống mới.

      Hành trang kiến thức của tuổi trẻ, các con tôi gần như đã bỏ hết trên quê hương. Trên đất người, những đứa con đã trưởng thành của tôi, giờ đây ngơ ngác, rụt rè như những đứa bé con, bập bẹ những tiếng nói câu chào. Chúng tôi mất hết niềm tự tin của mình khi đối diện với mọi người, mặc cảm " ăn nhờ, ở đậu " đeo đẳng tôi ngày càng nặng trĩu, nhất là trong những ngày đi làm thủ tục, phỏng vấn, xin trợ cấp tị nạn, đi thi xếp lớp học ngôn ngữ bản xứ. Tôi vừa buồn cười, vừa muốn khóc.

     Hỡi ôi! Ở cái tuổi đang dần về chiều như tôi mà còn bập bẹ học nói như con sáo, con vẹt và chua chát khi nhìn những người đồng hương nét mặt tự hào khi vờ quên tiếng mẹ đẻ và nói sỏi tiếng ngoại bang. Biết làm sao hơn, ôi nỗi buồn nhược tiểu!

     Một lần nữa, trong tôi lại gào thét một nỗi đau chua xót ngấm ngầm của một con người đánh mất ngay cả chính mình. Cũng may, tôi còn giữ lại cho tôi tấm lòng của người mẹ và tôi bám víu vào đó, tựa vào đó, để quên mình, quên đi những buồn phiền tủi nhục; với nguyện vọng hy sinh những ngày còn lại cho con, ước mong các con được học hỏi, tiến thân. Đôi lúc nhìn lũ con vùi đầu ngày đêm bên những trang sách, tiếng Đức lại quá khó, tôi vừa xót xa vừa vui; nỗi vui của người mẹ nhìn con mình đang bước từng bước đến tương lai, hy vọng là tươi sáng hơn nhưng cũng xót xa cho đàn con mình đã đến tuổi trưởng thành, lại phải bắt đầu những bước đi tập tễnh trên con đường học vấn.

     Trong buổi giao thời " dầu sôi lửa bỏng " của quê hương, tôi đã vượt qua bao thăng trầm của cuộc sống, một mình đương đầu với bao nghịch cảnh, chống chọi với nỗi đau bị chà đạp, hất hủi rẻ khinh, niềm tự hào của người mẹ bất chấp khó khăn để nuôi con ăn học thành tài. Bây giờ còn gì? Tất cả chỉ là đôi bàn tay trắng!

     Đôi lúc nhìn lũ con, đã gần đến tuổi " tam thập nhi lập " và công đã thành, danh đã toại, bây giờ lại hì hục " dùi mài kinh sử ", thật tôi bắt cười đến rơi nước mắt!

      À, thì ra đổi đời là vậy! Đổi đời là đổi luôn cả tuổi tác và thế thái nhân tình. Cuộc sống mới! Nghe như một cảnh đời tươi đẹp hơn, khả quan hơn.

      Với thân phận nhược tiểu của chúng tôi, cuộc sống mới là bắt đầu lại từ đầu. Những gì mà chúng tôi đã tạo dựng trên quê hương, đều đã vứt bỏ trở lại. Cái cử chỉ của một con bạc cháy túi, rời bỏ chiếu bạc, cũng thê thảm như hoàn cảnh của kiếp lưu vong chúng tôi mà thôi!

      Tôi không phủ nhận nếp sống văn minh và đầy đủ vật chất ở xứ người, tôi cũng không hồ đồ để không nhận thức được cuộc sống tự do, đầy tình nhân đạo nơi xứ người; đã ra tay cứu vớt bao gia đình lâm vào ngõ cụt như gia đình chúng tôi nhưng bên cạnh sự cảm nhận và tri ân đó, tôi vẫn ôm một nỗi sầu xa xứ và xót xa cho thân bằng quyến thuộc của tôi còn lại trên quê hương; đang thiếu thốn mọi thứ, từ miếng cơm manh áo cho đến những tiện nghi tối thiểu cần có của một con người. Và điều tối thiểu cần thiết nhất cho đời sống con người là được hít thở bầu không khí Tự do và Công bằng cũng bị tước đoạt; vì vậy tuy đã thoát khỏi gọng kèm xiết chặt của chế độ phi nhân, trong tôi vẫn cứ mãi u hoài xót xa vì nỗi buồn lưu vong!

      Giờ đây, với hai bàn tay đã bắt đầu rã rời vì năm tháng, với một thể xác gần đất xa trời, với một khối óc bỏ trước quên sau, tôi sẽ làm được gì đây? và tôi đã khóc, " tuổi già hạt lệ như sương "; tôi khóc tức tưởi, khóc tủi nhục và đau thương – Ôi! Tôi đã bỏ lại sau lưng tôi một quê hương yêu dấu và những người tôi yêu thương còn ở lại!

 

                                                                             Mùa Tháng 4/ 2017

                                                                                                Nguyên Hạnh HTD




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7636)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8520)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7322)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6214)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 7106)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5343)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 4028)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8727)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 23255)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4691)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]