Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Câu chuyện cái tơi

24/12/201005:02(Xem: 7153)
Câu chuyện cái tơi

  cai_toi

      Từ ngày định cư ở một xứ hiếm mưa, lắm lúc tôi tưởng chừng như không còn nhớ nhiều đến những cơn mưa vùng nhiệt đới; mưa quê hương, nhất là những cơn mưa dai dẳng của một xứ "mùa đông thiếu áo, mùa hè thiếu ăn", mưa xứ Huế!

      Nhưng không, chiều nay nhìn học sinh tan học ra về trong cơn mưa, bao kỷ niệm của quê hương mưa dầm, trong đó cái tơi là một dấu ấn đậm đà nhất, đã đưa tâm hồn tôi vượt thời gian, vượt biển cả về với quê hương, về tận miền Trung mà đặc trưng là xứ Huế thân yêu; rồi thơ thẩn đậu lại trong sân trường Đồng Khánh, nơi tôi đã được lớn lên, được đào luyện, được phục vụ trong gần hết cả cuộc đời giữa bao hàng Phượng vỹ.

      Những em bé tan trường như những chú chim non đi ngang qua nhà tôi hôm nay với đầy đủ phương tiện văn minh chống mưa, chống rét, khiến tôi chợt se thắt nghĩ đến kỷ niệm của chính tôi trong chiến tranh với phương tiện che mưa duy nhất thật thô sơ lúc bấy giờ là "cái tơi“ phụ kèm cái nón.

      Tơi - nón là một cặp. Cái tơi không thể không đi chung với cái nón. Nhưng nón được dùng quanh năm, gặp thời tiết đẹp, nón được dịp phô trương vẻ nên thơ của nó; cho nên văn nhân thi sĩ không hề tiếc bút mực để ca tụng vẻ đẹp của cái nón, nhất là chiếc nón bài thơ, lại là chiếc nón bài thơ của miền sông Hương núi Ngự!

      Còn cái tơi, bản chất nó đã chìm sâu vào dĩ vãng mà vang bóng của nó cũng không hề lưu lại trong văn chương ít nhiều. Cái tơi là tiền thân của áo mưa hiện tại, là vật dụng che mưa của người Việt Nam từ nửa thế kỷ 20 về trước.

      Tơi được làm từ lá một loại cây Palm vùng nhiệt đới. Lá tơi được chằm lại với nhau, lớp nọ được bẻ chồng lên lớp kia thành một tấm lá dày hình chữ nhật. Cạnh ngang trên được xâu thành vai và cổ, có một sợi dây cột lại thành cổ tơi. Phần dưới lá được cắt phẳng và được rút lại thành chân tơi.

      Mang tơi là chui qua đầu, cái tơi được phủ từ vai xuống trở thành gần như diện tích một hình lăng trụ bao quanh người, dài gần tới mắt cá.

      Người mang tơi xa trông như một chú Pinguin! Tùy hướng mưa hướng gió, người mang tơi xoay mép tơi quanh mình sao cho khỏi ướt. Nếu như nón có nhiều kiểu nhiều tên kiêu sa như nón bài thơ, nón gò găng, nón tam giang, nón thượng.... thì cái tơi, hình thái giản dị mà cái tên cũng gần gũi, bình dân như tơi cá, tơi đọt, tơi cánh gà...

      Vật liệu để chằm Tơi cá là lá tơi già. Màu xanh đậm của lá phơi khô trở thành xám bầm bạc bạc. Tơi cá vừa rẻ vừa tiện, rất thích hợp cho đa số người bình dân trong mùa mưa gió.

      Sang hơn, bền hơn mà cũng ấm áp hơn thì có Tơi đọt. Tơi đọt làm bằng lá tơi non màu trắng ngà, phơi được nắng thì có màu vàng cam non, dở nắng thì ngả sang màu vàng nâu sẫm. Lá khô được ủi thẳng có hình như bàn tay xòe ra mà các ngón tay là đuôi lá mềm mềm, nhọn nhọn. Vai tơi đọt vừa rộng vừa ngang chứ không xệ xuôi như tơi cá.

       So với những vật dụng che mưa ngày càng tiến bộ, cái tơi quả có nhiều bất tiện, thua kém. Nhưng bộ máy chọn lọc nhiệm mầu của ký ức sao chỉ còn để lại trong tôi những kỷ niệm vặt vãnh, dễ thương gắn liền với cái tơi trên những bước đường đi học của thời thơ ấu.

      Nhớ lại cái mưa dầm của xứ Huế, mưa dai dễ sợ, lạnh dễ sợ... mà gió cũng dễ sợ! Đoạn đường dài đi bộ dưới mưa từ Thành Nội qua trường Đồng Khánh lại phải qua cầu Tràng Tiền "dài" lê thê! Nhưng cảm giác còn lại trong tôi chỉ là sự ấm áp, cái ấm áp của một đứa bé được che mưa trốn gió trong chiếc tơi dày nhất là khi được lúc thúc đi trong cái tơi với một bọc bắp rang đầy trong túi áo và bất chợt một đôi khi là sự nao nao se thắt!

      Cái tơi đầu tiên trong đời tôi thật nhiều kỷ niệm gắn liền với trường Đồng Khánh. Mùa khai giảng, cô tôi đã dắt tôi ra chợ Đông Ba mua một cái tơi và một cái nón. Cô cẩn thận dắt tôi theo để đo cho vừa. Cái tơi cô mua cho là một cái tơi cá. Cô lựa kỹ để chọn cái có lá sáng hơn một chút, cô trải bề trái cái tơi, rờ rờ từng đường chỉ, nắn vòng vai coi có chắc không, rồi ướm vào thân hình tôi xem có vừa không? Xong cái tơi vừa ý, cô mua thêm cái nón mười lăm vành và nài thêm một cái dải nón. Cô chụp cái nón lên đầu tôi trong bộ tơi nón mới rồi gõ gõ trên nón cười: " Ngó như tai nấm! "

      Ra khỏi chợ Đông Ba một lúc, trời đang tạnh bỗng rỉ rả mưa. Tôi kéo cô núp dưới mái hiên tiệm ăn Quốc-tế cho đỡ ướt bộ tơi nón mà tôi muốn dành trọn vẹn cho ngày mai. Cô tôi không ngạc nhiên trước ý tưởng ngây ngô ấy, chỉ chép miệng:" Hùm! giữ được hoài răng, mưa Huế mà! "

      Hồi hộp chờ đợi ngày mai đến trường, tôi thức khuya, xếp vuốt chiếc áo bằng vải dù đen, cái quần trắng, mấy quyển vở với cán bút, cặp tơi nón mới cũng được chiếm một địa vị cao hơn nhà bếp, được móc lên cao như một chú bù nhìn. Mưa dầm gió bấc nhưng nép trong cái tơi cá với một bọc bắp rang, đôi chân bé nhỏ đã được đỡ lạnh bằng đôi guốc gỗ. Nhưng khi về nhà mới thấy nhức rát ở sau chân. Quay lại cúi nhìn thì hai nhượng chân đều đã chảy máu. Cái tơi cá mới với hàng lá rất sắc đã cứa chân tôi trong mỗi bước đi mà tôi không hay biết!

      Mùa đông năm ấy đánh dấu một chuỗi ngày mới của đời tôi. Cùng với cái tơi, tôi hãnh diện được chen chúc trong hàng ngũ của những nữ sinh Đồng Khánh mà nhiều người hằng mong ước. Tôi được vào lớp Đệ Thất B2, lớp lớn nhất trường lúc bấy giờ chỉ mới đến Đệ Tứ mà thôi.

      Đây là thời gian cam khổ, hàng nhập cảng chưa thông, hàng nylon chưa có; một số ít còn giữ được những cái áo tơi dầu dưới thời Pháp thuộc, ngoài ra là tơi cá và tơi đọt. Áo tơi dầu bấy giờ chưa gọi là cái áo mưa, là loại áo giống như áo manteau có hai mặt, mặt trong là vải dày như nỉ, mặt ngoài có phết lớp dầu màu đen. Loại áo này cũng sột soạt và kém chịu nắng. Hễ áo hơi cũ là mặt dầu rạn nứt làm cho áo dễ bị thấm nước mưa nhưng đó là loại sang nhất thời bấy giờ. Cả trường chỉ đếm được mấy áo của cô Hiệu trưởng và một số ít thầy cô. Đến Tết năm đó áo mưa nylon đầu tiên xuất hiện tại trường Đồng Khánh. Hai bạn trong lớp tôi được dì và chị từ Pháp gởi về cho hai áo mưa nylon đầu tiên tại trường và có lẽ cả trong thành phố Huế?

      Ngày đầu hai bạn mang tới, cả trường trố mắt đứng ngó theo. Xinh đẹp làm sao! một cái màu xanh, một cái màu đỏ, tươi thắm giữa lùm xùm những nón cùng tơi ủ dột ướt át. Lại còn cái mũ áo nữa, bạn kéo lên trùm đầu thay cái nón, đẹp đẽ gọn gàng chắc lại còn ấm đầu, ấm tai nữa(?) và văn minh ghê! Bước lên thềm, bạn cởi áo, chỉ cần rũ nước và xếp nhỏ lại cho vô hộc bàn; chắc chắn là nhiều người mơ ước lắm nhưng trong đó chưa có tôi! Niềm mơ ước của tôi chỉ mới dừng ngang cái tơi đọt mà chưa có, huống gì cái áo mưa tân tiến đó!

      Con đường đi học của tôi đã xa mà phải qua thêm một cây cầu nhiều gió. Hằng ngày vào giờ đi học cũng như vào giờ tan trường, học sinh Đồng Khánh nối nhau hàng một qua cầu. Trời nắng, áo trắng, nón trắng làm đẹp cầu bao nhiêu thì trời mưa, tơi cá, tơi đọt, nón xám đen trông ủ dột bấy nhiêu! Cái tơi quả có quá nhiều nhược điểm. Mang tơi cá mới, trước hết là phải chịu cảnh "lòng quê đi một bước đường một đau" cho đến khi cái chân tơi hết bén. Cái bất tiện hằng ngày cho học sinh chúng tôi là phải cất nón chào thầy cô khi đang mang tơi. Cái tơi được xoay mép theo chiều ngược gió, gặp thầy cô liền phải xoay lại ra trước để có thể thò tay ra đưa lên giở nón. Thật ra thì cũng không phải là giở hẳn, chỉ cần nhích nghiêng cái nón cho có điệu, cọng với cái cúi đầu và một ánh mắt thay lời chào là đủ.

      Nhưng chỉ trong tích tắc đó thôi, cũng đã đủ cho nước mưa hắt vào mép tơi ướt dọc thân mình, lại còn theo cổ mà chảy ròng qua vai, xuống tới nách, chảy suốt dọc theo cánh tay. Mưa Huế mà! Ướt và lạnh! Nhưng có ai bắt phải chào đâu? Các thầy cô cũng thông cảm nên có lẽ không ai muốn đối diện để bắt học sinh cất nón chào nhưng phần mình vẫn thích, vẫn cố tìm cách để chào. Được chào thầy cô, thấy vui vui, tâm trạng hay hay, một chút hãnh diện được làm học sinh Đồng Khánh!

      Mang tơi, dù phải đi vòng qua cầu, xa hơn nhiều, tôi chẳng dám qua đò Thừa Phủ, bởi cái tơi cá hoặc tơi đọt cứng ngắt, người ta không thể ngồi ở mép đò. Nhiều người đứng thì đò dễ mất thăng bằng nhất là khi gặp gió mạnh, những cái tơi trở thành vật cản gió, đò càng dễ lật. Chìm đò với cái tơi cột quanh cổ thì chỉ có nước làm bạn với thủy tề mà thôi!

      Tuy nhiên, muốn thấy được cái ưu điểm lớn nhất của cái tơi, tưởng cũng nên quay về nơi thôn dã. Đối với người nông phu làm việc giữa ruộng đồng nhất là những người đi cấy lúa, đi nhổ cỏ, với cái thế của con người chồm bò trên ruộng mạ, cái tơi có tác dụng như một cái mền cứng phủ xuôi trên lưng, vừa ấm, vừa ngăn được mưa, chắn được gió mà không làm trở ngại phần đầu phải cúi xuống, cũng như không vướng bận đôi tay thoăn thoắt làm việc. Trường hợp này tơi cá lại tiện dụng hơn tơi đọt vì ít cứng hơn và mép tơi mở rộng hơn.

      Cái tơi còn một biến thể khác thích hợp cho những người lao động mà đôi tay cần di chuyển như kéo xe, chèo đò gọi là "tơi cánh gà". Tơi này gồm hai phần trên dưới nối lại với nhau, có hai chỗ hở cho đôi tay thò ra, hai tay được che bằng hai mảnh tơi xòe ra như hai cánh gà. Đối với tất cả các nghề lao động nói trên làm việc không kể mưa rét, cái tơi quả có đem lại ấm áp hơn là áo nylon sau này. Chả thế mà người phụ nữ nông thôn khi lo lắng cho chồng làm việc dưới mưa dầm gió bấc đã gởi gắm được chút tin cậy vào cái tơi:

                          Trời mưa thì mặc trời mưa

                          Chồng tôi đi bừa đã có cái tơi.

                                                     (ca dao)

      Không hiểu có phải riêng tôi vì cảm tình, kỷ niệm chi phối cách nhìn mà hình ảnh "cái tơi" trở về trong ký ức của tôi cũng quyện lẫn với bao nhiêu hương vị ngọt ngào của kỷ niệm, bàng bạc giữa mùi thơm ấm áp của bắp rang, đậu phụng, bánh mì...

      Đêm đông giá buốt ngồi học khuya, nghe tiếng rao lanh lảnh "ai ăn bánh mì không?" sẽ nghe được cả mùi thơm của bánh mì thoang thoảng từ xa ngoài đường cái. Tôi rã rũ mấy quyển vở cầu may có khi rụng ra một đồng do nhịn tiền đò ngang hôm trước. Chú bé bước vào với cái tơi cá nằm nghiêng che gọn bao bố đựng bánh mì hơn là che người. Chú bê bao mì đặt trên bực thềm và hắt cái tơi ra, mùi thơm tỏa lên ngọt ngào chi lạ! Bánh mì ủ trong mấy lần bao bố cũng được "mang tơi" cẩn thận, vẫn nóng, vẫn giòn và thơm ngon dễ sợ!

      Thế hệ trẻ ngày nay, thức ăn dư thừa không thể nào cảm nhận được những cảm giác đó. Những cảm giác bắt nguồn từ vị giác, khứu giác thẩm thấu vào ruột gan rồi xuyên qua tim, suốt não và đọng lại trong vòng lưu trữ của kỷ niệm mà theo đó, hình ảnh cái tơi cũng dập dềnh như những nét chấm phá của bức tranh xưa.

      Mùa mưa năm sau nữa, tôi cũng được thăng hoa. Băng qua giai cấp tơi đọt mà tôi từng mơ ước, tôi nay đã súng sính trong chiếc áo mưa nylon màu xanh da trời. Áo mưa vừa tiện lợi vừa đẹp đẽ nhưng mỗi lúc qua cầu lạnh gió, nhất là những lúc mà hàng khuy nút dẫn nước mưa chui tuột vào đẫm ướt thân hình, tôi bỗng lại thấy thích nhớ cái tơi ấm áp ngày nào!

      Thực tế thì cũng tùy vùng, tùy lúc, cái tơi cũng vẫn còn xuất hiện rải rác ở các địa phương hẻo lánh, xa hẳn ánh sáng thị thành. Đôi lúc qua những vùng đó, bất chợt tôi còn thấy lại những cái tơi lá hoặc hơn nữa là những cái tơi làm bằng bao cát nylon phế thải từ những đồn bót điêu tàn, tôi xót thương cuộc sống vẫn còn khổ nghèo, lạc hậu dai dẳng của đồng bào tôi.

      Cái tơi cá, tơi đọt, cái áo dầu đã theo luật tiến hóa của xã hội mà biến dạng chuyển mình, lớp sau đẩy lớp trước cùng lùi dần vào dĩ vãng. Vật thể tiêu biến nhưng hình ảnh tồn tại, cho dù hình ảnh có nhạt nhòa nhưng kỷ niệm vẫn khắc ghi đậm sâu mãi trong lòng!

      Nắng cháy mưa tuôn mà có được chiếc tơi, chiếc nón đúng lúc, thiết thực và thân thương biết chừng nào tinh thần lá lành đùm lá rách.

      Ngày nay, sau nửa trái đất xa xôi vạn dặm, sau nửa thế kỷ dài, cô bé với chiếc tơi cá đứng dưới gốc cây phượng già trong sân trường ngày xưa vẫn còn quanh quẩn với bao hàng cây phượng vỹ đang cố nở hoa trên xứ người (nhóm Phượng Vỹ - Houston) gởi mến thương theo từng cánh hoa học trò đang bay về quê cũ, mong biến thành những chiếc nón, chiếc tơi đến với những đồng nghiệp đang còn cơ cực trong những lúc nắng lửa mưa dầm.

 

                        Chiếc tơi hoài niệm mà thương,

                        Cho nhau ấm áp để vương nhớ hoài!

 

      Còn chiếc áo tơi thật sự qua bao thế hệ đã phôi pha theo đà tiến hóa. Nó cũng cùng chung số phận như "Ông Đồ" qua bài thơ nổi tiếng của Vũ đình Liên:

                             ....

                            Ông Đồ vẫn ngồi đó,

                            Bên đường không ai hay.

                             ....

      Đã đi vào quên lãng. Nhưng chiếc áo tơi của một thời thể hiện nếp sống sinh hoạt của người dân Việt xưa trong bối cảnh còn lạc hậu, nông nghiệp là chính. Tuy vị trí của nó không sâu đậm như chiếc áo dài quốc hồn, quốc túy hay chiếc nón lá vẫn còn tồn tại đến bây giờ nhưng nó cũng là một hình ảnh rất gần gũi, thân thương của người dân nghèo và bàng bạc đậm nét quê hương.

      Rất tiếc còn lại chăng chỉ là trong ký ức!!

 

                                                                              Viết để nhớ lại những ngày ấu thơ

                                                                                            Tháng 2/2014

                                                                                          Nguyên Hạnh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/10/2010(Xem: 3809)
Kiều bào hơn 30 quốc gia trên thế giới đã về Thủ đô nhân mùa lễ hội kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà nội. Ngày 30/9, tất cả đã có mặt, và được đón về khách sạn Kim Liên. Ngày mồng 1 và mồng 2 tháng 10, tất cả các đoàn Kiều bào được tập dợt tại đường Bắc Sơn, sơ duyệt diễu hành tại Quảng trường Ba Đình. Và những ngày sau đó được Ban Tổ chức đưa đi thăm viếng thắng cảnh, các khu di tích có liên quan đến triều đại Thánh Vương Lý Thái Tổ.
04/10/2010(Xem: 2659)
Thôi Hộ, một danh sĩ đời nhà Đường (618-907), nhân dự hội Đạp Thanh đến Đào Hoa Trang, gõ cửa một nhà xin được giải khát. Một thiếu nữ đứng thập thò bên cửa...
02/10/2010(Xem: 2972)
Một đêm nọ, sư cụ nằm mộng thấy một người đàn bà dắt năm đứa con nhỏ đến trước mặt mình rồi vái lấy vái để, miệng nói: "Xin cứu mạng! Xin cứu mạng!". Sư hỏi người đàn bà...
30/09/2010(Xem: 10009)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
27/09/2010(Xem: 6818)
Đức Địa Tạng là một vị đã chứng bực Đẳng Giác trải đến vô lượng A Tăng Kỳ kiếp rồi. Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật. Do cái bổn nguyện ấy, nên Ngài phân thân nhiều phen, đặng độ thoát hằng hà sa số chúng sanh đương tội khổ, trải đã không biết bao nhiêu kiếp rồi, mà Ngài cũng còn làm một vị Bồ Tát như vậy. Còn như nói đến tiền thân của Ngài từ khi chưa chứng quả vị, có kiếp Ngài làm con gái, có kiếp thì Ngài làm con trai, và cũng có kiếp Ngài làm vua nữa.
25/09/2010(Xem: 9687)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
10/09/2010(Xem: 58495)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
02/09/2010(Xem: 6984)
Sơ lược về Thiền Sư Nguyễn Minh Không, Ông tên là Nguyễn Chí Thành sinh ngày 14/8 năm Bính Thìn (1076) tại Điềm Xá, Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Thiếu thời ngài chuyên làm nghề chài lưới của ông cha. Năm 29 tuổi ngài xuất gia đầu Phật. Ngài đã cùng Thiền sư Giác Hải và Thiền sư Từ Đạo Hạnh làm bạn thân sang Thiên Trúc học đạo với thầy Samôn được phép: Lục Trí Thần.
02/09/2010(Xem: 3496)
Tha phương sinh sống xứ người, tuy thâm tâm lúc nào cũng hướng về quê hương mến yêu, thế nhưng phải chờ đợi đến hơn hai mươi năm trời, sau bao ngày khắc khoải suy tư Thanh mới đột ngột quyết định về nước nghỉ hè hai tháng. Chàng về Saigon viếng thăm họ hàng vài ngày, rồi lang thang du ngoạn khắp các vùng biển từ Sầm Sơn đến Vũng Tàu, sau cùng quay lại Nha Trang, chiều chiều thơ thẩn đi dài dài trên bãi, mắt lơ láo nhìn biển khơi xa xăm với nỗi buồn vời vợi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]