Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nói Với Ai Bây Giờ?

05/04/201303:23(Xem: 2926)
Nói Với Ai Bây Giờ?

Hoa Sen Trang

Nói Với Ai Bây Giờ?

Trần thị Nhật Hưng

Trước năm 1975, ba tôi là một thương gia giàu có. Sự giàu có không bắt nguồn ba là quan chức đầy thế lực hay thân cận chính quyền. Ba tôi chỉ là một người dân lương thiện thuần túy.

Ngày ba mẹ dắt đứa con trai nhỏ từ Bắc vào Nam, ba mẹ tá túc tại nhà người chú họ bên mẹ. Người chú có một xưỡng sản xuất bánh kẹo, thế là ba mẹ tôi vừa được xem là “con cháu trong nhà” vừa làm việc đắc lực cho chú. Đương nhiên thôi, chân ướt chân ráo vào Nam với hai bàn tay trắng, có nơi ăn chốn ở tạm gọi là an thân còn mong gì hơn. Thế nhưng, cuộc đời không đơn giản như thế. Ba mẹ tôi chỉ được nuôi ăn nhưng không nhận được đồng lương nào, dù chỉ vài đồng tiêu vặt.Tiền với ba tôi không phải là cứu cánh, nhưng nó là phương tiện để giải quyết nhu cầu cần thiết, cơ bản của con người.

Ngày mẹ mang thai sinh người con thứ hai, vì không có tiền, ba tôi phải đưa mẹ vào sinh nhà thương thí. Việc ăn uống và sữa cho em bé phải tự lo. Đứa bé sinh ra èo uột vì cả mẹ lẫn con vốn thiếu dinh dưỡng. Mẹ tôi không đủ sữa cho con bú. Sữa bên ngoài thì không có tiền mua, nên chỉ được vài hôm, đứa bé vừa yếu vừa đói chết tức tưởi trong lòng mẹ.Với nỗi đau xé ruột xé gan, ba mẹ tôi ôm con vào lòng, buồn tủi khóc vì sự bất lực của chính mình. Cứ thế, một đứa, rồi đến đứa thứ hai vẫn cùng chung số phận, ba tôi nhìn ra tương lai mờ mịt nơi nhà người chú, ba quyết định ra đi tìm con đường sống, sau khi gởi vợ con sang nhà người dì, em họ mẹ.

Ngậm ngùi chia tay vợ con, tạm để mẹ và anh tôi ở lại, ba lặng lẽ một mình rời nhà, bắt đầu bước vào con đường vô định. Ba đi mãi không định hướng. Con đường trước mặt không vẽ ra những tia hy vọng, nhưng ba tôi vẫn hy vọng, vì hy vọng là sức sống của con người, là động lực sức đẩy cho ba tiến tới. Ba lặn lội hết tỉnh này thành phố kia, dường như đất miền Nam, hầu như nơi nào cũng có dấu chân ba đặt tới. Tha phương cầu thực, bữa đói bữa no, nhưng với ý chí mãnh liệt, cùng sự chịu đựng cùng cực, ba không nệ hà bất cứ công việc nào khả dĩ nuôi được thân và có vài đồng gởi về cho mẹ. Cần cù, siêng năng, chịu khó…luôn là tiêu đề của ba tôi, “đại phú do thiên, tiểu phú do cần”, sự biếng nhác không thể dung chứa tồn tại trên thế gian này. Ba tôi luôn nghĩ thế. Rồi với thời gian, men mãi trong đường hầm tối tăm, cuối cùng ba cũng tìm ra ánh sáng. Bao năm vất vả làm việc, ba tôi dành dụm tạo được một số vốn nho nhỏ, trở về miền Trung, nơi có mẹ và anh tôi đang trông đợi, ba thuê nhà rồi tự thân dựng bảng hiệu. Cửa tiệm mang tên “Chí Thành” hàm ý nghĩa: có chí sẽ thành công. Ba mở tiệm sản xuất bánh mì và tất cả các loại kẹo bánh, kể cả những sản phẩm như lồng đèn, bánh dẻo, bánh nướng cho mùa Trung Thu do chính ba chủ đạo.

Đất lành chim đậu. Cùng lúc với thành phố vươn mình, cửa tiệm của ba tôi cũng dần dần phát triển. Rồi năm chị em gái chúng tôi cũng lần lượt ra đời. Chúng tôi được đời ban tặng mỹ danh: “Ngũ long công chúa”. Thiên hạ vẫn bảo: “Tam nam bất phú, ngũ nữ bất bần”. Không rõ có phải vì vậy hay nhờ Trời Phật thương hay do tam cần: cần cù, chuyên cần, cần kiệm mà càng lúc sự may mắn luôn mỉm cười với ba mẹ tôi. Cửa tiệm từ bán lẻ sang bán sỉ cung cấp cho cả tỉnh và các quận lỵ. Ba tôi phải thuê thêm nhân công để phụ giúp công việc. Chẳng bao lâu từ nhà thuê, ba mua nhà rồi xây lầu, rồi từ từ tiến dần tậu thêm một miếng đất rộng ngay trung tâm, cách căn nhà đang ở 15 phút đi bộ để xây sẵn 6 căn nhà cho 6 người con.

Những kinh nghiệm gian khổ, thiếu thốn, vất vả trong sinh kế, nhất là từng chứng kiến nạn đói năm Ất Dậu 1945, ba mẹ không muốn đám con mình vướng phải. Với cái nhìn thực tế, khu đất phía sau 6 căn nhà, ba tôi biến nó thành nông trại. Ba đào hai ao thả cá, sắm một chiếc thuyền nan (chính chiếc thuyền này đã làm mất mạng hai đứa trẻ hàng xóm trèo rào qua nghịch thuyền bị lật úp, sau này ba tôi phải lấp hai ao lại). Xung quanh ao, rải rác ba trồng chuối, dừa, cây ăn trái. Trong vườn, từng luống bắp, hành củ thẳng tắp dọc lối đi cùng nhiều loại rau thực dụng. Trên sân thượng của 6 căn nhà, ba xây tổ nuôi chim câu. Đất lành chim lại đậu. Với sự chăm sóc cẩn thận của ba tôi, dần dần chim câu lũ lượt kéo về sinh sôi nảy nở, ba tôi lại phải tăng cường nhiều “tổ ấm” cho từng cặp chim câu. Dưới vườn, gà vịt chạy rong đếm không hết. Nông trại bỗng sinh động bởi nhiều âm thanh hỗn hợp của gà, vịt, chim, với tiếng vẫy đuôi bì bõm của cá ở dưới ao lẫn với tiếng gió rì rào len qua hàng dừa, chuối. Cảnh sắc thiên nhiên sống động của một thế giới nhỏ thật êm ả, thanh bình.

Hằng ngày, cứ mỗi buổi chiều sau công việc của tiệm, ba tôi thường ra vườn vui thú điền viên. Còn các chị em tôi, chúng tôi ra tưới cây nhặt cỏ sau buổi tan trường mặc dù đã có một chị quản gia. Thu hoạch của nông trại mang lại cho gia đình tôi thêm nhiều lợi tức. Nhưng vốn hào sãng, bình dị, thân thiện, có người hỏi mua nhưng ba không bán, ba cứ túm từng gói bắp, hành, rau rồi sai chị em tôi đem biếu bà con từ đầu trên tới xóm dưới.

Cuộc đời vốn vô thường. Niềm mong mỏi của ba mẹ, đám con của ông bà sau này quây quần bên nhau, nếu có thế nào, đùm bọc nhau bám lấy đất mà sống. Đất đai là nguồn sống vô tận cho con người. Đất sẽ không phụ lòng với những ai yêu nó, hết lòng tận tụy cùng nó.Tiếc là, không phải điều gì muốn cũng được, mơ sẽ thành, nên ba trong năm chị em gái của tôi, phần vì việc học, phần lập gia đình theo chồng đổi vô Sài Gòn rồi sau đó định cư ở nước ngoài sau biến động 1975 khi chưa một lần vào sống một trong sáu căn nhà đó.

Sáu căn nhà để không. Thay vì cho thuê, ba mẹ tôi sử dụng trong công tác từ thiện mà ba tôi là thủ quĩ và bố chồng tôi là hội trưởng của hội “Hiếu Hữu Hội Những Người Bắc Tha Hương” mục đích tương thân tương ái hỗ trợ giúp nhau khi xa quê, không chỉ người trong hội mà cả những người ngoài hội. Thỉnh thoảng hội mời bác sĩ đến chữa bịnh miễn phí cho đồng bào nghèo. Hội có xe táng và cả nghĩa địa để lo chôn cất những người thân quen….

Biến động 1975 làm đảo lộn cuộc sống của người dân miền Nam. Nhiều gia đình tan tác. Nhà ba mẹ tôi không ngoại lệ. Ý thức được “tội” giàu, nhiều tài sản khi chính sách nhà nước chủ trương đấu tranh giai cấp, san bằng xã hội, ba tôi vội vàng không đợi nhà nước “hỏi thăm” đã “tình nguyện” dâng tặng một căn nhà trong sáu căn nhà đó. Căn nhà “tặng” sau này nhà nước “bán” cho một trung tá công an. Một căn khác có anh bộ đội hỏi “mượn”. Bốn căn còn lại nhà nước “mượn” nốt để mở “tổ hợp kẹo bánh” cho nhân viên “cửa hàng ăn uống”. Ba tôi không có quyền hạn gì trong tài sản của ông nữa.

Cái kiểu “làm chủ tập thể”, cha chung không ai khóc, cho nên chả bao lâu, không chỉ nông trại sơ xác tiêu điều: gà, vịt biến mất, chim vỗ cánh bay, rau cỏ cũng không…ngóc đầu lên nổi. Đất không phụ người chỉ có người phụ đất. Kẻ hái thì nhiều, người trồng thì không, mà ngay cái tổ hợp bánh kẹo cũng te tua vì cả nước đang lâm cảnh đói nghèo, thiên hạ cần thóc gạo hơn là những hàng ăn uống xa sỉ. Cuối cùng đất hết lành, chim hết đậu, nhân viên bánh kẹo lần lượt rời...“tổ”( tổ hợp) bay tìm con đường mới để lại cảnh tan hoang như một đám cháy bởi khói ám của củi than nấu kẹo. Có “chim” trước khi bay, còn âm thầm bán sang tay một căn nhà với giá rất hời!

Biết nói sao bây giờ và…NÓI VỚI AI BÂY GIỜ ( ?!) trước những sự kiện trái tai gai mắt, ba mẹ tôi đành yên lặng sống trong cảnh “có tai như điếc, có mắt như mù, có miệng như câm” để cầu hai chữ bình an!

Thế rồi, ba căn nhà còn lại, chính quyền tạm khóa cửa, để đó.

Thời gian lặng lẽ trôi, như thờ ơ, như vô tình với mọi biến động xung quanh. Mọi người vẫn sống, vẫn giương to hai mắt nhìn thời thế đổi thay, để chứng kiến, làm chứng nhân cho một thời đại.

Gia đình tôi cũng vẫn sống, lặng lẽ như bao người khác. Khi chị kế và em gái út của tôi, cùng cậu cháu nội của ba mẹ tôi lập gia đình, mẹ tôi ra thưa chính quyền xin lại ba căn nhà trống để ở. Thời đó, dường như đương đầu với cuộc sống, với chính quyền chỉ có đàn bà. Đàn ông tránh để khỏi bị đi cải tạo. Cái lối làm việc đẩy trách nhiệm cho chỗ này người kia không muốn giải quyết những điều có lợi cho dân vẫn là thói quen thông thường của nhân viên nhà nước. Mẹ tôi không chờ đợi, mẹ “vùng dậy” như bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài. Mẹ thực thi quyền làm chủ, điều mà nhà nước luôn ra rả tuyên bố: “Chính quyền là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân làm chủ”. Có sự cho phép của…đầy tớ để được…làm chủ, mẹ tôi không ngần ngại nữa, nắm bắt lấy nó để thực hiện cái quyền linh thiêng đó! Mẹ và đám con cháu bẻ khóa dọn vào ở! Mẹ cả gan đương đầu với chính quyền. Một cuộc xung đột giữa nhà nước với một bà già! Cuối cùng, cái gì của Ceasar phải trả lại cho Ceasar, dù chỉ còn một nửa. Có vẫn hơn không!

Thế rồi, sau khi tu bổ sửa sang lại ba căn nhà với bao công sức, ba mẹ tôi dọn ra ở chung với vợ chồng người cháu nội, sát cạnh với gia đình hai cô con gái, làm “hàng xóm” cận kề sát vách với những nhân vật hàng xóm đặc biệt!

Không hẳn vì tục ngữ dạy: “Bán anh em xa, mua láng giềng gần” để tối lửa tắt đèn có nhau, mà vốn bản chất hiền hòa, gần gũi, thân thiện, ba mẹ tôi không cần “mua” vẫn vui vẻ thân thiện với láng giềng, sống hài hòa với lối xóm như không có vấn đề gì xảy ra. Những chuyện bất bình, chướng tai gai mắt coi như cổ tích chả bao giờ nhắc đến. Có lần khi được biết, nhà nước “hứa” sẽ trả lại nhà cửa đất đai cho những “núm ruột ngàn dặm” nếu trở về, nhà cửa còn giấy tờ, tôi đặt vấn đề với ba, đòi những căn nhà đã mất. Ba tôi nói: “Thôi, con ạ. Họ đang an ổn sống nơi nhà của mình, đuổi họ ra con cháu họ vất vưỡng cầu bơ cầu bất, mình có vui không. Hơn nữa, chúng con ba đứa ở hải ngoại, mất ba căn nhà, Trời Phật đã cho ba căn nhà khác đẹp hơn, tốt hơn, mình còn đòi hỏi gì nữa. Có phúc có phần. Mình sống được hãy cho người khác sống với”.

Tôi nghe thật xuôi tai, thật chí lý và cảm phục lòng nhân hậu cùng ý tưởng của ba tôi. Và tôi cũng rất mừng khi thấy ba mẹ an nhiên tự tại, không buồn phiền, không động tâm trước những điều đúng ra “trông thấy mà đau đớn lòng!”.

Thậm chí ông hàng xóm bộ đội cần tí đất phía sau xây thêm phòng cho con cháu; với lòng nhân hậu, ba tôi vui vẻ gật đầu.Thế nhưng, câu chuyện đã không dừng ở đó. Miếng đất mầu mỡ phía sau nhà cùng con hẻm rộng 2 mét từ đường chính dẫn ra phía sau nông trại vẫn hấp dẫn lôi cuốn bao con mắt thèm thuồng. Rồi bỗng một ngày đẹp trời, nhà ông công an nhờ may mắn kề sát con hẻm, qua ngỏ ý mua tí đất đó, nhưng ba tôi chủ trương nếu có cơ hội chỉ tậu thêm chứ không bao giờ bán đất, thế mà, bằng cách nào không ai biết, mà có biết thì cũng giả mù, giả điếc, giả câm để nhìn ông “hóa phép” nới rộng nhà ông với 2 mét đất đó. Con hẻm bị bít lại, mất lối đi, như bít tương lai của bao người dân lương thiện. Rồi cùng với chính sách tiến nhanh tiến mạnh tiến thật vững chắc, họ lần lượt tiến sâu đất phía sau nhà, xây nhà rộng và dài hơn, hợp thức hoá bằng mấy cái sổ đỏ xác nhận hợp lệ tài sản của họ. Ôi, biết nói sao bây giờ và NÓI VỚI AI BÂY GIỜ trước những sự kiện như vậy?!

Thôi thì, thời thế thế, thế thời ta phải thế. Chấp nhận để mong hai chữ “bình an!”.

Thế nhưng, “cây muốn lặng, gió chẳng chịu ngừng”, để bảo vệ khỏang đất sau vườn, gia đình tôi rào lại để minh định đất đai của mình, không để hàng xóm lấn chiếm nữa, thì bao công an, một cách nhạy bén, đến làm khó dễ, đó là lần đầu tiên, ba giận run lên, thở dốc.

Với chính sách sổ đỏ, chỉ làm khổ những người dân đen. Hãy nghe vị công an “hàng xóm” nói với tôi:

- Ông bà cụ bên nhà ( tức bố mẹ tôi) muốn có sổ đỏ, chỉ “chạy” mười triệu ( 500 US) là xong ngay.

(Hiện nay giá “mua” sổ đỏ tăng lên một trăm triệu)

À, thì ra là thế. Muốn được việc phải giải quyết bằng tiền! Để nói về xã hội đương thời, ca dao đã cất tiếng hát:

Tiền là tiên là Phật.

Là sức bật của lò xo.

Là thước đo lòng người.

Là tiếng cười của trẻ.

Là sức khỏe người già.

Là cái đà tiến thân.

Là cán cân công lý.

Là hết ý cuộc đời!

Vốn không quen hối lộ, chạy chọt, và tại sao phải hối lộ khi hợp thức hóa một cách hợp pháp tài sản mồ hôi nước mắt của mình, gia đình ba mẹ tôi lập đơn công khai xin sổ đỏ. Đơn lập từ tết...Congo mà cho đến bây giờ, năm 2013, xách đơn khiếu kiện từ địa phương chạy tít ra mãi trung ương Hà Nội, đơn đi “du lịch” ngày này qua tháng khác, năm này sang năm kia, đẩy tới đẩy lui, ngâm dấm ngâm tôm, không ai cứu xét, cuối cùng lại về nằm trong tủ, về địa phương với lý do giấy tờ không hợp lệ. Vậy câu hỏi đặt ra, ba nhà hàng xóm kia, từ giấy tờ nào để có ba sổ đỏ ?!

Ôi, sổ đỏ, sổ đỏ. Thì ra chính sách sổ đỏ chỉ tô đen lên cuộc sống của dân đen, làm mờ lối đi cho người dân tiến tới, chỉ vô tình tiếp tay để hợp thức hoá những tài sản bất hợp lệ không do mình tạo ra mới vội vàng bằng cách này hay cách khác hợp thức làm của riêng. Người dân chân chính, lương thiện không dễ dàng có được để có thể sử dụng làm ăn, nếu không chịu bỏ tiền ra “mua” sổ đỏ!

Thưa các bạn, tôi xin chấm dứt câu chuyện tại đây, những sự kiện tôi vừa nêu trên, tự mỗi người có thể đánh giá về luật pháp, cuộc sống của người dân thấp cổ bé miệng đang sinh sống tại Việt Nam.

Riêng tôi, nếu cho rằng, tổ quốc luôn tri ân những chàng trai “yêu nước” sẵn sàng hy sinh tính mạng, dũng cảm xông pha trận địa để bảo toàn lãnh thổ của tiền nhân khi có ngoại xâm, thì sẽ cảm thông một phụ nữ như tôi, chỉ biết “thương nhà”, thương cho mồ hôi nước mắt của cha mẹ bị xâm phạm, bị đè đầu. Tôi thay cha, một người cha hiền lành, nhân hậu; bản chất nhân ái hiếu hòa, luôn đứng trên mọi khôn, dại toan tính của đời thường; suốt đời tận tụy lo cho vợ con, không tranh chấp tranh dành, chỉ luôn lấy phúc phần làm căn bản. Tôi thay cha để cất tiếng nói xuất phát tận đáy lòng, lương tâm tôi.Tôi chỉ muốn nói lên những bất công trong xã hội, hoặc tiếng nói của những người dân bị áp bức chất chứa lâu ngày mà từ lâu, đã nhiều lần tôi muốn nói, nhưng chẳng biết phải…

NÓI VỚI AI BÂY GIỜ ???!!!

Trần thị Nhật Hưng.

2013

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/06/2014(Xem: 7208)
Qua không quen Mận mà biết Đào - đứa con gái 25 tuổi của Mận - qua một số lần giao dịch mua bán nhà. Đây là việc làm thêm nhưng lại là thu nhập chính của Đào (và Mận). Qua những thương vụ làm ăn chung, Đào tỏ ra là người nhanh, nhạy, thông minh và sòng phẳng.
23/06/2014(Xem: 4713)
Chiều nay, một chiều thật an bình, dưới bóng râm mát diệu của những tàn cây xanh, lồng lộng tiếng chim như trĩu thanh âm xuống phòng khách bên trong một ngôi đạo tràng. Bình trà đã rót nhiều lần, nhưng hương vị trà hãy còn thấm đậm theo dòng thế sự hoài niệm cổ kim.
21/06/2014(Xem: 9968)
Chúng tôi, Nhóm Học Phật chùa Quang Nghiêm, gồm một số thân hữu và những huynh trưởng Gia Đình Phật Tử trong vùng có cơ duyên gần gũi và học hỏi cùng thầy trong nhiều năm qua. Nhân đó, chúng tôi được biết, Thầy là một cây viết thường xuyên trên tập san: THEO DẤU CHÂN XƯA của Phật học viện Huệ Nghiêm, SÀI GÒN trước 1975. Nhưng sau những đợt đốt sách của chính quyền Cộng Sản, THEO DẤU CHÂN XƯA không còn nữa. Càng gần Thầy, chúng tôi nhận thấy những gì Thầy dạy và viết thật thực tế và giản dị trong việc áp dụng Đạo Phật vào đời sống hằng ngày cho chúng ta. Chúng tôi không muốn có sự thất thoát như xưa, nên mạo muội sưu tập một số bài mà Thầy đã viết trong thời gian qua. Đây là một món quà tinh thần của Thầy mà chúng tôi đã rút ra những bài học bổ ích cho cuộc sống hàng ngày. Có một điều quan trọng nữa là bài học thân giáo của Thầy: phong cách hiền hòa và đức độ lan tỏa từ Thầy êm đềm như dòng sông Thu Bồn xứ Quảng. Trong bất cứ lúc nào, nếu có dịp, Thầy thường nhắc nhở: “Học Phật có n
20/06/2014(Xem: 10589)
Thuở xưa có một con rùa, vào một buổi chiều đi kiếm mồi bên một cái đầm vắng. Một con dã can cũng đi kiếm mồi cạnh cái đầm ấy. Con rùa lanh lợi kia vừa thấy dã can từ xa đi tới thì nghĩ rằng : “Dã can nầy đã từng gây hại cho loài của ta, vậy nay ta phải thận trọng.” Nghĩ vậy con rùa bèn thâu bốn chân và thứ năm là cái cổ vào trong chiếc mai rắn chắc của mình, rồi nằm im bất động.
20/06/2014(Xem: 4724)
Gia đình là nền tảng của xã hội. Muốn tạo dựng một xã hội phồn thịnh an vui, có lẽ ta cần phải có thật nhiều mái ấm gia đình mới phải. Thế nhưng trong thực tế thì than ơi, ta chỉ gặp toàn những gia đình tiêu biểu cỡ anh chồng Nguyễn văn Đầu Vịt và chị vợ Trần thị Lá Sen như câu chuyện Mái Ấm Chợ Chiều dưới đây.
16/06/2014(Xem: 13523)
Chuyện Thiền Môn là những câu chuyện do chúng tôi biên soạn. Những mẫu chuyện nầy đã đăng rải rác trong các Bản Tin Đại Tòng Lâm Phật Giáo. Bắt đầu từ số 17 cho đến số 29. Mỗi Bản Tin được kèm theo trong tờ Đặc san Phước Huệ phát hành ấn tặng mỗi kỳ vào các dịp đại lễ như: Phật Đản, Vu Lan và Tết Nguyên Đán. Tuy là câu chuyện dài nhưng mỗi kỳ đều có mỗi chủ đề khác nhau. Những nhân vật trong câu chuyện không phải là những nhân vật có thật ở trong đạo, nếu có sự trùng hợp thì đó chẳng qua là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, ngoài ý muốn của bút giả. Chúng tôi dựa vào một vài nét sinh hoạt thực tế cụ thể trong thiền môn mà viết thành qua mỗi chủ đề khác nhau. Mỗi chủ đề tuy có khác, nhưng những nhân vật trong cốt chuyện trước sau đều có sự hoạt động liên tục. Qua mỗi câu chuyện, chúng tôi cố gắng diễn tả theo từng tâm trạng và hoàn cảnh của mỗi nhân vật hay thường xảy ra trong chốn thiền môn.
16/06/2014(Xem: 6850)
Tập sách nhỏ nầy chúng tôi ghi lại những ngày lang thang rày đây mai đó trên đất Mỹ. Đây là chuyến đi Mỹ lần đầu tiên của chúng tôi. Như những chuyến đi lần trước mà chúng tôi đã có dịp đi qua các nước: Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, cứ mỗi chuyến đi tôi đều có ghi chép lại những gì đã xảy ra trong suốt cuộc hành trình. Lần nầy cũng vậy. Tôi cũng muốn ghi lại những việc xảy ra từng ngày. Đến đâu, ở đâu, làm gì ... tất cả, chúng tôi đều có ghi lại đầy đủ. Do đó, quyển sách nầy với hình thức giống như là một quyển nhật ký hay ký sự hơn là quyển sách mang tính chất nghiên cứu. Trong sự ghi chép đó, nơi nào có liên quan đến những địa danh mà chúng tôi tới viếng thăm, chúng tôi đều có sưu tầm một số ít tài liệu để dẫn chứng. Tôi nghĩ rằng, chuyến đi nào cũng có ít nhiều kỷ niệm vui buồn. Cuộc đời tương đối không sao tránh khỏi. Mục đích của chúng tôi là muốn lưu lại một vài hình ảnh kỷ niệm thân thương qua những nơi mà đoàn chúng tôi đã đến.
10/06/2014(Xem: 8107)
Hai dì vãi chùa tôi tuổi đời đều đã trên 70. Về sự kính Ôn, trọng thầy, thương chú và đùm bọc điệu hai dì như nhau. Về sự siêng năng, chịu khó, tiết kiệm, giữ của cho chùa hai dì bằng nhau. Về vóc hình nhỏ nhắn hai dì giống nhau. Về chiều cao khiêm tốn hai dì ngang nhau. Thời Ôn (cố) còn sống, có mụ nhà quê lâu lâu mới lên thành phố tìm đến viếng chùa rồi gặp Ôn trú trì, sau khi đảnh lễ, mụ nói một câu tỉnh rụi về hai dì vãi chùa tôi: Ôn có “cặp sanh đôi” trông vui mắt, hí.
04/05/2014(Xem: 16298)
Hằng năm tại Thụy Sĩ nói riêng, Âu Châu nói chung, nhằm vào lễ Phục Sinh được nghỉ 4 ngày liên tiếp từ thứ 6 đến thứ 2, thiên hạ thường nô nức mua sắm, du lịch hay tiệc tùng ăn nhậu..v.v..và..v.v.. để đền bù và thưởng thức cuộc sống cho bõ những ngày tháng làm việc mệt nhọc mà họ cho là "đi cày" vất vả.
15/04/2014(Xem: 4983)
Thiên tình sử Truyện Hoa Lan không biết đã cướp mất bao nhiêu thì giờ quí báu của các bạn, chứ riêng tôi bị mất nhiều công sức lắm. Chẳng là Mỗi tuổi nó đuổi xuân đi, đuổi nhanh đến độ mỗi sáng tôi phải ngồi nhổ tóc bạc đến mỏi cả tay, đến mờ con mắt mà vẫn chưa xong.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]