Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tình Huynh Đệ

01/01/201404:08(Xem: 7969)
Tình Huynh Đệ

 

            ban_do_viet_nam3

Sau mấy chục năm dài xa quê hương, lần đầu tiên trở về nước, tôi muốn dành cho cả gia đình một bất ngờ lớn nên không báo trước để ai ra đón cả. Lúc ngồi trên máy bay, tôi mường tượng một cách đơn giản ra con đường nào dẫn vào xóm Biển, nơi tôi đã được sinh ra và lớn lên với tất cả những ngày tháng êm đềm nhất của thời niên thiếu. Nhà tôi bao năm qua vẫn ở nơi ấy, bố mẹ và các em tôi vẫn quây quần cạnh nhau trong cái xóm Biển hiền hòa an bình ấy, nhất định tôi sẽ tìm ra được nhà mình, không lầm lẫn vào đâu được.

Trước khi về, tôi có nghe bạn bè kể tỉ mi về sự thay đổi lớn lao của đất nước nào là những con đường mới rộng thênh thang, nhà hàng khách sạn sang trọng mọc lên như nấm. Rồi thì thành phố được mở rộng ra đến tận những vùng ngoại ô xa xôi, họ cho tôi xem những bức ảnh chụp mới nhất về sự đổi thay này, tôi hơi ngỡ ngàng nhưng vẫn tự tin là  khi về nhất định sẽ tìm ra được nhà mình, nơi tôi thuộc lòng từng ngõ ngách đến đi. Hóa ra tôi đã lầm! Xe tắc xi chạy quá một đoạn dài, tôi vẫn không tìm ra được số nhà mình nằm đâu cả bởi những con đường nhỏ hẹp xưa kia giờ được mở rộng thênh thang, lại thêm những ngôi nhà mới xây, đặc biệt có một biệt thự hoành tráng nhất hầu như che khuất tất cả tầm nhìn của tôi về xóm Biển thân thương.

Ông tài xế tắc-xi cuối cùng buộc phải xuống xe hỏi lại nên tôi mới biết mình đã đi xa quá rồi. Thậm chí khi đứng trước căn nhà nhỏ bé của mình tôi vẫn choáng ngợp vì sự đổi mới không phải của gia đình mình mà của … hàng xóm. Ngôi biệt thự to tướng ngất ngưởng kia phải chăng là nhà lão Trung, lão người Hoa suốt ngày đẩy xe bán chè đậu xanh, chè mè đen ăn mặc xuề xòa nghèo xơ nghèo xác dạo nào? Điều gì biến lão ấy trở thành một “đại gia” có tầm cỡ của xóm Biển này nhỉ?

Sự trở về của tôi quả thật là một bất ngờ, hạnh phúc lớn lao của cả nhà: bố mẹ vui mừng, các em hớn hở. Mọi người xúm quanh tôi tíu tít hàn huyên tâm sự. Cuộc đời không có gì ấm áp bằng cảnh gia đình đoàn tụ! Chưa bao giờ tôi thấm thía ý nghĩa này như lúc ngồi chung cùng bố mẹ và các em cùng trò chuyện thân tình, cười vui bên nhau như những ngày xa xưa cũ. Bữa cơm tối toàn là những món ăn mà tôi ưa thích thuở nào và lâu lắm rồi tôi mới có dịp dùng lại, hạnh phúc đơn sơ bình dị nhưng đẹp biết bao!

Sau vài ngày nói hết chuyện mình bắt đầu lân la đến chuyện người, nào là bà con cô bác trong họ, cuối cùng tôi tò mò hỏi bố mẹ tôi về sự giàu có bất ngờ và khá phô trương của người hàng xóm “Hủ tíu mì” nghèo khổ năm nào. Tiện thể tôi cũng hỏi thăm luôn về bác hàng xóm, bác Việt đằng sau nhà tôi vốn là bạn thân của bố tôi trong cùng quân ngũ ngày xưa, bây giờ ra sao rồi? Bố mẹ tôi nhìn nhau dò hỏi, cả hai đột nhiên trầm ngâm im lặng một lúc lâu làm tôi lại càng tò mò phải gặng hỏi thêm một lần nữa, bố tôi mới từ từ kể chuyện.

Bác Việt, một người đàn ông tính tình phóng khoáng, hào hoa phong nhã nhưng khá tốt bụng. Cái tính hào hoa ấy có lẽ được thừa hưởng từ ông bố bác ấy, cụ hình như có đến ba bốn bà vợ, bác Việt là con bà cả lại thông minh đĩnh ngộ nên được cả nhà nể trọng nhất. Của đáng tội, bác Việt vừa đẹp trai, con nhà giàu, học giỏi, vừa có khoa ăn nói lưu loát nên dù bác ấy không muốn phái nữ cũng chẳng tha. Người có số đào hoa mà không biết tự kiềm chế thì chỉ có tai họa chứ không hề hạnh phúc chút nào. Bác Việt có hai bà vợ chính, phòng nhì, phòng ba thì ôi thôi chẳng biết đâu mà lần. Con cái thì có đứa được bác ấy để ý tử tế, còn bao đứa khác vất vưởng chả ra gì, thật khổ!

Nghĩ cũng điên đầu! Ngày tôi còn bé tôi nhớ nhất là hai đứa con của bác Việt cách nhau một tuổi học cùng lớp với tôi: một đứa tên là Trường Sa, đứa kia tên là Hoàng Sa. Hai anh em nó dễ thương, hiền lành chỉ phải tội vóc dáng nhỏ thó, èo uột và đều là con bà vợ sau của bác Việt. So với những đứa con mạnh khỏe, thông minh khác thì hai đứa này khá bình thường, chẳng có gì xuất sắc, nhưng tôi lại thích chơi với chúng bởi cái tình giản dị, thật thà rất dễ mến của hai anh em họ.

-         Vậy mà bây giờ hai thằng Hoàng Sa, Trường Sa lại là hai mỏ vàng của nhà bác Việt đấy con ạ!

Mẹ tôi nói.

Tôi ngạc nhiên:

-         Sao thế hả mẹ? Lạ nhỉ!

Bố tôi thở dài:

-         Chả biết là phúc hay họa đâu.

Hóa ra sau này hai đứa lại thừa hưởng bao nhiêu là của cải của ông bà ngoại chôn dấu từ đời nào trong lòng đất. Số của cải ấy lẽ ra là của mẹ họ, nhưng bà ấy mất rồi nên Hoàng Sa, Trường Sa hưởng hết. Chưa hết, càng lớn hai anh em lại càng thông minh, đẹp trai, sáng láng nên bác Việt rất quý mến nể nang. Tôi thắc mắc:

-         Nhưng con vẫn chưa hiểu chuyện này thì có liên quan gì đến nhà lão Trung đâu?

Mà có đúng là căn biệt thự đồ sộ cạnh nhà mình là của lão Trung không, bố mẹ?

-         Đúng đấy! Đâu phải mình con là sửng sốt mà cả xóm Biển này cũng khá ngỡ ngàng trước sự giàu có bất ngờ và nhanh chóng của gia đình lão Trung đấy!

Tôi lắc đầu, không thể tưởng tượng được cái lão bán chè đậu xanh, chè mè đen ba cọc ba đồng thêm một lũ con nheo nhóc ấy mà có thể phất lên như diều vậy. Hay là lão có của cải chôn dấu đâu đó chăng? Hóa ra là không phải, năm loạn, lão Trung lén lút đưa con về Tàu tạm lánh. Thời gian sau đó, chúng nó trưởng thành ăn nên làm ra liền quay ngược về Xóm Biển. Chả biết chúng nó học đâu ra món thuốc có tên là “Thần dược hổ lốn”. Loại thuốc này chả biết có “thần” hay không mà làm được khối phép lạ nào là biến thối thành thơm, biến thịt heo thành thịt bò, gạo hẩm thành gạo Nàng Hương, bón vào rau thì một tuần lớn vù vù có thể ăn được, làm kem thoa mặt thì bà lão biến thành gái đôi mươi.

Lũ con lão Trung mở xưởng đầu tư chế tạo cái thứ “Thần dược hổ lốn” ấy và giàu nhanh đến độ chắc tiền có thể mua được cả … mặt trăng (!). Hưởng ứng món thuốc này nồng nhiệt nhất là những kẻ buôn bán muốn vốn ít lời to và … bệnh viện, bác sĩ tha hồ hốt bạc. Dân tình ù ù cạc cạc cứ thế mà đi vào bệnh viện như đi chợ, vì đủ thứ các bệnh lạ tràn lan xuất hiện, người người bị đầu độc từ từ, chết vì ung thư thì như cơm bữa. Chẳng phải chỉ ông già bà lão mà trung niên từ bốn, năm chục tuổi cũng đua nhau về … miền đất lạnh thế mới kinh hoàng chứ!

map Việt Nam truong saNhưng ai có làm sao cũng không ảnh hưởng gì đến bố con nhà lão Trung, cái gia đình đoạt giải tốt nghiệp cử nhân… độc ác kia. Nhưng chuyện đâu đã hết, bởi lòng tham vô đáy của con người mà gây ra càng lúc càng bao nhiêu tai họa khác. Cả xóm biển này ai mà không biết bà vợ hai của bác Việt: một phụ nữ tài sắc vẹn toàn, đúng mẫu một bà vợ Á Đông đức hạnh bậc nhất. Người vợ và mẹ như bà trên thế giới này vào thời đại ngày nay chắc chẳng còn ai nữa. Bà vừa đẹp, vừa có học, gia đình nho giáo, bà lại rất mực hiền từ, nhẫn nại. Một tay bà quán xuyến cả đại gia đình, săn sóc người vợ  cả đau bệnh triền miên, nuôi dạy cả hai dòng con vào khuôn phép.

Cái hay nữa là mặc dù ông chồng có tính trăng sao, rày đây mai đó vì công việc thế mà khi về nhà, bà rất mực chiều chuộng, kính nể chẳng lộ một vẻ gì ghen tuông, hờn giận. Bà càng được mọi người thương mến, vì hay giúp đỡ bất kỳ ai trong xóm Biển gặp hoạn nạn, đau ốm cần đến bà. Cứ nhìn thấy gương mặt phúc hậu, nụ cười hiền hòa của bà là ai cũng cảm thấy vơi bớt đi bao đau khổ.

Chính tôi cũng nhớ rất rõ ngày còn bé khi sang nhà bác Việt chơi, bao giờ cũng được bác gái cho khi thì kẹo, bánh. Bác hay xoa đầu tôi mỉm cười khuyên tôi ngoan ngoãn, hiếu thảo với bố mẹ đó là đạo đức đầu tiên của con người. Có lần, bố tôi vì công vụ đi xa, mẹ tôi ở nhà bị ốm, biết tin, bác Việt gái nấu cả nồi cháo rất ngon thơm phức mùi hành lá, tía tô mang sang nhà để mẹ tôi dùng. Mẹ tôi thường bảo bác ấy không phải là người thường mà là bồ tát tái sinh đấy! Tôi cũng nghĩ thế bởi vì không thể có người đàn bà nào đầy đủ năng lực, sức mạnh kỳ bí để làm nổi ngần ấy công việc nặng nề như thế trong cuộc sống hằng ngày mà vẫn đẹp đẽ, tươi tắn, không một lời than van, ta thán.

Chính vì bác Việt gái nhỏ, chúng tôi thường gọi như thế, quá xuất sắc nên hầu hết các quý ông trong xóm Biển đều nể phục và tất nhiên khối kẻ yêu thầm, nhớ trộm bác ấy, trong đó có lão Trung. Đôi mắt ti hí như con lươn khô của lão hấp háp vẻ si mê mỗi khi nhìn thấy bà vợ hai của bác Việt đi qua nhà. Lão mua chuộc hai thằng bé Hoàng Sa, Trường Sa bằng món chè đậu đen, đậu xanh tự tay nấu lấy thơm phưng phức, ăn thoải mái miễn phí. Bọn trẻ con thích mê tơi nhưng sau đó thì bị mẹ chúng cấm tiệt với lý do là: nhà người ta nghèo, cả nhà trông chờ vào nồi chè để sống, mình không nên lợi dụng lòng tốt của người ta như thế.

Tuy vậy lâu lâu lão Trung lấy cớ chè ế mang sang cho bọn trẻ con ăn thì bà vợ hai bác Việt cũng lật đật biếu lại món quà gì đó hoặc cho lại tiền đám con lão Trung trả lễ.

Bà vợ cả của bác Việt mất, sau đó ít lâu thì bà hai cũng ra đi đem theo nỗi đau thương, tiếc nuối của cả xóm Biển. Lão Trung nghỉ bán mấy ngày nằm ì trong nhà, lão ốm thật hay ốm giả, lão đang nghĩ gì chả ai biết được. Chuyện cũ đã tưởng chìm vào quên lãng cho đến ngày nhà lão Trung trở nên giàu có, quyền lực, uy thế lẫy lừng cả xóm Biển. Lão dám tuyên bố ngày xưa bà vợ hai của bác Việt có quan hệ với lão và Trường Sa, Hoàng Sa là hai thằng con ruột của lão. Thế mới đáng sợ chứ! Hoàng Sa, Trường Sa chả là đang có của chìm, của nổi, hai anh em lại đẹp trai, cao ráo dễ thương được rất nhiều người để ý. Lão Trung đã giàu sụ, bành trướng khắp nơi rồi lại còn muốn vơ cả Trường Sa, Hoàng Sa của nhà bác Việt nữa thì thật là quá đáng! Cả xóm Biển này ai mà chẳng biết đức hạnh của bác Việt gái nhỏ, ngày vợ chồng bác Việt dọn đến tay bác ấy dắt Trường Sa mới hai tuổi, bụng mang bầu Hoàng Sa. Ngày ấy chả ai biết lão Trung là ai cả, thế mà lão dám trở mặt thớt dùng quyền và tiền ép bác Việt phải nhận Hoàng Sa, Trường Sa là con lão, thật trắng trợn, trơ trẽn đến cùng cực!

Đương nhiên đời nào bác Việt chịu chuyện vô lý đến thế, có điều gia đình bác ấy bị ảnh hưởng rất nặng nề về sự việc này. Con cái bác Việt chia làm hai phe; phe được sống và giáo dục trong gia đình nề nếp của bác Việt và bà vợ hai của bác thì chống đối lão Trung quyết liệt; phe kia là lũ con hoang thất học lại nghèo khổ giờ được lão Trung dùng tiền mua chuộc, dụ dỗ nên cùng nhau về ùa với lão ép bức cha ruột và anh em mình phải cúi đầu tuân phục lão Trung. Khổ nỗi phe này đang được thời nên thẳng tay đàn áp phe kia tơi bời, bác Việt đau lòng lắm khi nhìn thấy cảnh huynh đệ tương tàn này nhưng đành thúc thủ. Tôi ngậm ngùi:

-         Giá như còn bác Mỹ, tỉnh trưởng tỉnh nhà mình khi xưa bố nhỉ? Ngày ấy bác Mỹ cũng là “ho ra bạc, khạc ra vàng”, uy thế lẫy lừng nhưng không làm việc quá vô đạo đức, thâm độc như lão Trung. Ngày ấy, lão Trung nghèo kiết xác, sợ bác Mỹ một phép.

Bố tôi lắc đầu thở dài:

-         Bác Mỹ nhà mình hết thời rồi con à! Nghe đâu bây giờ bác ấy cũng đang nhờ vả gì đó ở lão Trung nên có nói năng cũng phải dè dặt, sợ lão giận đấy.

-         Thế thì còn gì để nói nữa!

Thấy tôi có vẻ bực tức không vui, mẹ ôn tồn bảo:

-         Con ạ! Mẹ dạo này hay nghe đọc kinh, thuyết Pháp để tìm hiểu sâu sắc hơn về đạo Phật cao siêu nhiệm màu chứ không phải đơn giản chỉ biết đi chùa thắp hương, cầu khấn rồi thôi. Từ đó mẹ hiểu rằng trên đời này không có gì qua khỏi luật nhân quả. Kẻ đắc chí hôm nay mà không biết tạo phúc không thể vĩnh viễn yên ổn mai sau. “Gieo nhân nào thì gặt quả ấy” lưới trời thưa nhưng sợi tóc không lọt qua. Khi đủ duyên phần thì tự khắc hậu quả sẽ đến ngay thôi.

Bố Bố tôi gật đầu đồng tình:

-         Năm rồi, nhà lão Trung xây cất thế nào mà bị sụt móng, hai đứa cháu nội bị đè chết oan uổng, chắc là quả báo đầu tiên đấy.

Tôi hơi ngạc nhiên vì năm vừa rồi xảy ra chuyện thế mà sao năm nay nhìn nhà lão Trung như chẳng có gì xảy ra, căn biệt thự được xây lại nhanh chóng và càng hoành tráng, lộng lẫy hơn lên. Nhưng  thôi có lẽ mẹ tôi nói đúng, mọi việc còn phải chờ xem cái đã.

-         Thế hai anh em Hoàng Sa, Trường Sa dạo này ra sao rồi, bố mẹ có tin gì của tụi nó không?

-         Chúng nó cũng tội nghiệp lắm, ngơ ngơ ngẩn ngẩn chả biết tương lai sẽ ra sao? Lão Trung mua chuộc cả giới có chức có quyền của gần hết xóm Biển và lũ con hoang vô lại của bác Việt rồi. Lực lượng chống đối khá yếu ớt, còn dân tình như gia đình mình thấp cổ bé miệng nói năng được gì.

 

Lòng tôi dậy lên một nỗi xót xa, thương cảm cho cả hai anh em Hoàng Sa, Trường Sa, cho gia đình bác Việt và hết cư dân xóm Biển thân thương hiền hòa đang chịu đựng sự cai trị ngấm ngầm tàn độc của lão Trung hàng xóm kia.

Rồi biết bao nạn nhân vô tội của cái món thuốc “Thần dược hổ lốn” nữa, chẳng lẽ vài chục năm nữa xóm Biển biến thành một nghĩa trang khổng lồ hay sao? “Thần dược hổ lốn” tung ra khắp đầu đường xó chợ rồi, làm sao ngăn chặn được. Tôi rùng mình ngừng đũa nhìn chằm chằm vào đĩa rau xanh trước mặt, mẹ hiểu ý trấn an:

-         Ngày xưa đi chợ, mẹ phải chọn rau tươi, không có sâu, quả to chín mọng mới ngon. Bây giờ thì phải chú ý chọn rau nào có sâu ăn, quả èo uột, tôm bé, cá còi thì mới yên tâm là không có chất độc của “Thần dược hổ lốn” bên trong.

 

Hóa ra là như thế, thảo nào tôi vừa mới ngỏ ý đãi cả nhà đi ăn tiệm làm ai cũng hết hồn lắc đầu lia lịa rằng quán ăn nhà hàng là “kho” chứa chất độc kinh khủng lắm.

 

Ngày cuối cùng về lại Âu Châu, bố mẹ và các em tiễn tôi ở phi trường, nhìn những khuôn mặt thân thương đang phải bị sống bất an bên cạnh lão hàng xóm giàu sụ, vô lương tâm kia, tim tôi đau nhói.  Tôi tự hứa với lòng có dịp nhất định sẽ về lại dù chỉ được ngồi ăn cùng bố mẹ và các em rau sâu, cá còi, tôm bé cũng vui lòng. Tôi muốn chia xẻ nỗi lo lắng của cả gia đình với tất cả tình yêu thương chân thành nhất và không muốn nhà mình lâm vào cảnh “huynh đệ” tương tàn vì tiền, vì quyền lực như gia đình bác Việt đáng thương kia.

 

 

 

Thi Thi Hồng Ngọc.

Tháng 6-2013.


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 10854)
Truyện “Quan Âm Thị Kính” không rõ xuất hiện từ thời nào và do ai sáng tác ra. Thoạt tiên truyện là một khúc hát chèo gồm nhiều đoạn, với ngôn từ rất bình dị và tự nhiên, rõ ràng là một khúc hát của dân quê, của đại chúng. Về sau mới có truyện thơ “Quan Âm Thị Kính” xuất hiện, được viết bằng thể thơ “lục bát”, mang nhiều ý nghĩa thâm thúy của cả đạo Nho lẫn đạo Phật. Người ta phỏng đoán rằng tác giả chắc phải là một người có học thức.
29/03/2013(Xem: 17308)
Trăm năm trong cõi người ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Lạ gì bỉ sắc tư phong, Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Cảo thơm lần giở trước đèn, Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh.
29/03/2013(Xem: 9315)
Chuyến hành hương Thái Lan và Nhật Bản bắt đầu từ ngày 22 tháng 10 đến mùng năm tháng 11 năm 2012, vào một sáng mùa thu với nắng vàng ươm và se se gió lạnh. Có ai biết con số ghi tên tham dự chuyến hành hương Nhật Bản này lên đến bao nhiêu không? Trước giờ khóa sổ vào đầu tháng 10 là hơn một trăm vị, sau rút lui từ từ để dừng lại con số 85 với 14 quốc gia trên thế giới. Một con số đáng ngại trong lịch sử đi hành hương của quý Thầy.
20/03/2013(Xem: 3347)
Tác giả sinh năm 1937, 63 tuổi, hiện cư ngụ tại Worcester, Massachusetts. Công việc: Technician hãng điện tử ở Mass. Sau đây là bút ký về California lãnh Giải Thưởng do ông Luận viết. Bài đã phổ biến trong sách VVNM 2001, nhưng “mất tích” trên Việt Báo Online. Xin mời cùng đọc lại. Hình trên, từ trái: Thượng Nghị Sĩ California, Ông Joe Dunn và các viên chức dân cử khai mạc cuộc họp mặt. Phía trái là nữ nghệ sĩ Kiều Chinh. Phía mặt là cô Leyna Nguyen của truyền hình KCAL9.
19/03/2013(Xem: 10546)
Tập truyện “ Làng Cũ - Người Xưa” của Tiền Vĩnh Lạc (Australia) .Sách dầy 216 trang, bìa cứng 4 màu. Bìa trước cảnh nhóm chợ chồm hỗm ở làng quê tỉnh Trà Vinh. Bìa sau hình xe thổ mộ, ngưa kéo, tác giả gọi là “xe kiếng”? Nội dung gồm nhiều truyện ngắn, hồi ký, tài liệu quý giá...cùng nhiều kinh nghiệm sống viết ra ý chừng muốn khuyên răn con cháu, sách đọc thú vị và cần thiết để làm tài liệu nghiên cứu. Sách không bán, in để tặng . Ai cần xin gọi 618-8932- 3912
10/03/2013(Xem: 3207)
Nước Xá Vệ có cô gái nghèo tên Nan Đà, thân thế cô độc thân, sống bằng nghề ăn xin. Bấy giờ, cô thấy các vị vua chúa, quan đại thần, trưởng giả cúng dường Phật và chư Tăng, cô tự nghĩ: “Ta mắc tội báo gì mà sinh vào nhà bần tiện như thế này nên không thể cúng dường đấng phước điền?”. Cô tự hối trách lấy mình.
04/03/2013(Xem: 5728)
Theo lời Hòa Thượng trưởng lão Huyền Tôn kể rằng, những ngày Hòa Thượng còn ở quê nhà, nơi Tổ đình Thiên Ấn – miền Trung, có một chú sa di tên Diệu Mãn. Thường nhật Chú chỉ làm công việc quét chùa. Chú người hiền lành, ít nói, tánh tình ngồ ngộ. Đặc biệt trong chúng, ai nhờ việc gì đều hoan hỷ làm ngay. Cũng chính vì vậy, chú thường bị quí sư huynh đệ la rầy, sao đang làm việc này lại bỏ đi làm việc kia… Tuy vậy, nhưng lúc nào chú cũng hoan hỷ, không ai thấy chú câu chấp việc gì bao giờ.
20/02/2013(Xem: 16814)
Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát (trọn bộ 03 tập) do HT Thích Như Điển dịch Việt: Năm 2007 khi chúng tôi đang nhập thất tại Úc Châu thì có một Phật Tử tên là Huỳnh Hiệp từ Hoa Kỳ có liên lạc qua bằng E-mail cho Thầy Hạnh Tấn và nhờ tôi phiên dịch tác phẩm "Những mẩu chuyện linh ứng của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát tại Fuchù - Nhật Bản“ từ tiếng Nhật sang tiếng Việt. Tôi bảo cứ gởi một số chuyện tiêu biểu sang Úc, tôi dịch thử. Nếu đồng ý với cách dịch ấy thì tôi sẽ tiếp tục. Sau một tuần lễ, tôi gởi trở lại 3 chuyện đầu đã dịch của quyển một cho Phật Tử nầy và anh ta rất hoan hỷ và nhờ tôi dịch tiếp cho đến hết quyển sách. Tôi trả lời rằng: "Tôi rất sẵn sàng; nhưng tôi rất ít thì giờ; khi nào xong tôi chưa biết; nhưng tôi sẽ cố gắng. Đồng thời việc đánh máy sẽ giao cho các anh chị em thực hiện". Cầm quyển sách trên tay độ 400 trang A4 thấy cũng hơi nhiều; nhưng thôi, cứ cố gắng vậy. Ông bà mình thường nói: „Kiến tha lâu đầy tổ“ quả câu nầy chẳng sai chút nào.
01/02/2013(Xem: 8670)
Tuổi Hồng Con Gái là tác phẩm đầu đời của tôi được viết vào năm 1980 cùng thời gian với tấm ảnh ngoài bìa sách. Tuy lúc đó sống ngay trên quê hương Việt Nam với dân số đông đảo mấy chục triệu người nhưng xung quanh tôi, vì hoàn cảnh hết sức đặc biệt, tôi không có lấy một người bạn, một người thân để tâm tình những lúc vui, buồn trong cuộc sống.
26/01/2013(Xem: 11254)
Cận cảnh tượng cụ Nguyễn Du bằng gỗ gù hương khủng ở Việt Nam
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]