Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tình Huynh Đệ

01/01/201404:08(Xem: 7851)
Tình Huynh Đệ

 

            ban_do_viet_nam3

Sau mấy chục năm dài xa quê hương, lần đầu tiên trở về nước, tôi muốn dành cho cả gia đình một bất ngờ lớn nên không báo trước để ai ra đón cả. Lúc ngồi trên máy bay, tôi mường tượng một cách đơn giản ra con đường nào dẫn vào xóm Biển, nơi tôi đã được sinh ra và lớn lên với tất cả những ngày tháng êm đềm nhất của thời niên thiếu. Nhà tôi bao năm qua vẫn ở nơi ấy, bố mẹ và các em tôi vẫn quây quần cạnh nhau trong cái xóm Biển hiền hòa an bình ấy, nhất định tôi sẽ tìm ra được nhà mình, không lầm lẫn vào đâu được.

Trước khi về, tôi có nghe bạn bè kể tỉ mi về sự thay đổi lớn lao của đất nước nào là những con đường mới rộng thênh thang, nhà hàng khách sạn sang trọng mọc lên như nấm. Rồi thì thành phố được mở rộng ra đến tận những vùng ngoại ô xa xôi, họ cho tôi xem những bức ảnh chụp mới nhất về sự đổi thay này, tôi hơi ngỡ ngàng nhưng vẫn tự tin là  khi về nhất định sẽ tìm ra được nhà mình, nơi tôi thuộc lòng từng ngõ ngách đến đi. Hóa ra tôi đã lầm! Xe tắc xi chạy quá một đoạn dài, tôi vẫn không tìm ra được số nhà mình nằm đâu cả bởi những con đường nhỏ hẹp xưa kia giờ được mở rộng thênh thang, lại thêm những ngôi nhà mới xây, đặc biệt có một biệt thự hoành tráng nhất hầu như che khuất tất cả tầm nhìn của tôi về xóm Biển thân thương.

Ông tài xế tắc-xi cuối cùng buộc phải xuống xe hỏi lại nên tôi mới biết mình đã đi xa quá rồi. Thậm chí khi đứng trước căn nhà nhỏ bé của mình tôi vẫn choáng ngợp vì sự đổi mới không phải của gia đình mình mà của … hàng xóm. Ngôi biệt thự to tướng ngất ngưởng kia phải chăng là nhà lão Trung, lão người Hoa suốt ngày đẩy xe bán chè đậu xanh, chè mè đen ăn mặc xuề xòa nghèo xơ nghèo xác dạo nào? Điều gì biến lão ấy trở thành một “đại gia” có tầm cỡ của xóm Biển này nhỉ?

Sự trở về của tôi quả thật là một bất ngờ, hạnh phúc lớn lao của cả nhà: bố mẹ vui mừng, các em hớn hở. Mọi người xúm quanh tôi tíu tít hàn huyên tâm sự. Cuộc đời không có gì ấm áp bằng cảnh gia đình đoàn tụ! Chưa bao giờ tôi thấm thía ý nghĩa này như lúc ngồi chung cùng bố mẹ và các em cùng trò chuyện thân tình, cười vui bên nhau như những ngày xa xưa cũ. Bữa cơm tối toàn là những món ăn mà tôi ưa thích thuở nào và lâu lắm rồi tôi mới có dịp dùng lại, hạnh phúc đơn sơ bình dị nhưng đẹp biết bao!

Sau vài ngày nói hết chuyện mình bắt đầu lân la đến chuyện người, nào là bà con cô bác trong họ, cuối cùng tôi tò mò hỏi bố mẹ tôi về sự giàu có bất ngờ và khá phô trương của người hàng xóm “Hủ tíu mì” nghèo khổ năm nào. Tiện thể tôi cũng hỏi thăm luôn về bác hàng xóm, bác Việt đằng sau nhà tôi vốn là bạn thân của bố tôi trong cùng quân ngũ ngày xưa, bây giờ ra sao rồi? Bố mẹ tôi nhìn nhau dò hỏi, cả hai đột nhiên trầm ngâm im lặng một lúc lâu làm tôi lại càng tò mò phải gặng hỏi thêm một lần nữa, bố tôi mới từ từ kể chuyện.

Bác Việt, một người đàn ông tính tình phóng khoáng, hào hoa phong nhã nhưng khá tốt bụng. Cái tính hào hoa ấy có lẽ được thừa hưởng từ ông bố bác ấy, cụ hình như có đến ba bốn bà vợ, bác Việt là con bà cả lại thông minh đĩnh ngộ nên được cả nhà nể trọng nhất. Của đáng tội, bác Việt vừa đẹp trai, con nhà giàu, học giỏi, vừa có khoa ăn nói lưu loát nên dù bác ấy không muốn phái nữ cũng chẳng tha. Người có số đào hoa mà không biết tự kiềm chế thì chỉ có tai họa chứ không hề hạnh phúc chút nào. Bác Việt có hai bà vợ chính, phòng nhì, phòng ba thì ôi thôi chẳng biết đâu mà lần. Con cái thì có đứa được bác ấy để ý tử tế, còn bao đứa khác vất vưởng chả ra gì, thật khổ!

Nghĩ cũng điên đầu! Ngày tôi còn bé tôi nhớ nhất là hai đứa con của bác Việt cách nhau một tuổi học cùng lớp với tôi: một đứa tên là Trường Sa, đứa kia tên là Hoàng Sa. Hai anh em nó dễ thương, hiền lành chỉ phải tội vóc dáng nhỏ thó, èo uột và đều là con bà vợ sau của bác Việt. So với những đứa con mạnh khỏe, thông minh khác thì hai đứa này khá bình thường, chẳng có gì xuất sắc, nhưng tôi lại thích chơi với chúng bởi cái tình giản dị, thật thà rất dễ mến của hai anh em họ.

-         Vậy mà bây giờ hai thằng Hoàng Sa, Trường Sa lại là hai mỏ vàng của nhà bác Việt đấy con ạ!

Mẹ tôi nói.

Tôi ngạc nhiên:

-         Sao thế hả mẹ? Lạ nhỉ!

Bố tôi thở dài:

-         Chả biết là phúc hay họa đâu.

Hóa ra sau này hai đứa lại thừa hưởng bao nhiêu là của cải của ông bà ngoại chôn dấu từ đời nào trong lòng đất. Số của cải ấy lẽ ra là của mẹ họ, nhưng bà ấy mất rồi nên Hoàng Sa, Trường Sa hưởng hết. Chưa hết, càng lớn hai anh em lại càng thông minh, đẹp trai, sáng láng nên bác Việt rất quý mến nể nang. Tôi thắc mắc:

-         Nhưng con vẫn chưa hiểu chuyện này thì có liên quan gì đến nhà lão Trung đâu?

Mà có đúng là căn biệt thự đồ sộ cạnh nhà mình là của lão Trung không, bố mẹ?

-         Đúng đấy! Đâu phải mình con là sửng sốt mà cả xóm Biển này cũng khá ngỡ ngàng trước sự giàu có bất ngờ và nhanh chóng của gia đình lão Trung đấy!

Tôi lắc đầu, không thể tưởng tượng được cái lão bán chè đậu xanh, chè mè đen ba cọc ba đồng thêm một lũ con nheo nhóc ấy mà có thể phất lên như diều vậy. Hay là lão có của cải chôn dấu đâu đó chăng? Hóa ra là không phải, năm loạn, lão Trung lén lút đưa con về Tàu tạm lánh. Thời gian sau đó, chúng nó trưởng thành ăn nên làm ra liền quay ngược về Xóm Biển. Chả biết chúng nó học đâu ra món thuốc có tên là “Thần dược hổ lốn”. Loại thuốc này chả biết có “thần” hay không mà làm được khối phép lạ nào là biến thối thành thơm, biến thịt heo thành thịt bò, gạo hẩm thành gạo Nàng Hương, bón vào rau thì một tuần lớn vù vù có thể ăn được, làm kem thoa mặt thì bà lão biến thành gái đôi mươi.

Lũ con lão Trung mở xưởng đầu tư chế tạo cái thứ “Thần dược hổ lốn” ấy và giàu nhanh đến độ chắc tiền có thể mua được cả … mặt trăng (!). Hưởng ứng món thuốc này nồng nhiệt nhất là những kẻ buôn bán muốn vốn ít lời to và … bệnh viện, bác sĩ tha hồ hốt bạc. Dân tình ù ù cạc cạc cứ thế mà đi vào bệnh viện như đi chợ, vì đủ thứ các bệnh lạ tràn lan xuất hiện, người người bị đầu độc từ từ, chết vì ung thư thì như cơm bữa. Chẳng phải chỉ ông già bà lão mà trung niên từ bốn, năm chục tuổi cũng đua nhau về … miền đất lạnh thế mới kinh hoàng chứ!

map Việt Nam truong saNhưng ai có làm sao cũng không ảnh hưởng gì đến bố con nhà lão Trung, cái gia đình đoạt giải tốt nghiệp cử nhân… độc ác kia. Nhưng chuyện đâu đã hết, bởi lòng tham vô đáy của con người mà gây ra càng lúc càng bao nhiêu tai họa khác. Cả xóm biển này ai mà không biết bà vợ hai của bác Việt: một phụ nữ tài sắc vẹn toàn, đúng mẫu một bà vợ Á Đông đức hạnh bậc nhất. Người vợ và mẹ như bà trên thế giới này vào thời đại ngày nay chắc chẳng còn ai nữa. Bà vừa đẹp, vừa có học, gia đình nho giáo, bà lại rất mực hiền từ, nhẫn nại. Một tay bà quán xuyến cả đại gia đình, săn sóc người vợ  cả đau bệnh triền miên, nuôi dạy cả hai dòng con vào khuôn phép.

Cái hay nữa là mặc dù ông chồng có tính trăng sao, rày đây mai đó vì công việc thế mà khi về nhà, bà rất mực chiều chuộng, kính nể chẳng lộ một vẻ gì ghen tuông, hờn giận. Bà càng được mọi người thương mến, vì hay giúp đỡ bất kỳ ai trong xóm Biển gặp hoạn nạn, đau ốm cần đến bà. Cứ nhìn thấy gương mặt phúc hậu, nụ cười hiền hòa của bà là ai cũng cảm thấy vơi bớt đi bao đau khổ.

Chính tôi cũng nhớ rất rõ ngày còn bé khi sang nhà bác Việt chơi, bao giờ cũng được bác gái cho khi thì kẹo, bánh. Bác hay xoa đầu tôi mỉm cười khuyên tôi ngoan ngoãn, hiếu thảo với bố mẹ đó là đạo đức đầu tiên của con người. Có lần, bố tôi vì công vụ đi xa, mẹ tôi ở nhà bị ốm, biết tin, bác Việt gái nấu cả nồi cháo rất ngon thơm phức mùi hành lá, tía tô mang sang nhà để mẹ tôi dùng. Mẹ tôi thường bảo bác ấy không phải là người thường mà là bồ tát tái sinh đấy! Tôi cũng nghĩ thế bởi vì không thể có người đàn bà nào đầy đủ năng lực, sức mạnh kỳ bí để làm nổi ngần ấy công việc nặng nề như thế trong cuộc sống hằng ngày mà vẫn đẹp đẽ, tươi tắn, không một lời than van, ta thán.

Chính vì bác Việt gái nhỏ, chúng tôi thường gọi như thế, quá xuất sắc nên hầu hết các quý ông trong xóm Biển đều nể phục và tất nhiên khối kẻ yêu thầm, nhớ trộm bác ấy, trong đó có lão Trung. Đôi mắt ti hí như con lươn khô của lão hấp háp vẻ si mê mỗi khi nhìn thấy bà vợ hai của bác Việt đi qua nhà. Lão mua chuộc hai thằng bé Hoàng Sa, Trường Sa bằng món chè đậu đen, đậu xanh tự tay nấu lấy thơm phưng phức, ăn thoải mái miễn phí. Bọn trẻ con thích mê tơi nhưng sau đó thì bị mẹ chúng cấm tiệt với lý do là: nhà người ta nghèo, cả nhà trông chờ vào nồi chè để sống, mình không nên lợi dụng lòng tốt của người ta như thế.

Tuy vậy lâu lâu lão Trung lấy cớ chè ế mang sang cho bọn trẻ con ăn thì bà vợ hai bác Việt cũng lật đật biếu lại món quà gì đó hoặc cho lại tiền đám con lão Trung trả lễ.

Bà vợ cả của bác Việt mất, sau đó ít lâu thì bà hai cũng ra đi đem theo nỗi đau thương, tiếc nuối của cả xóm Biển. Lão Trung nghỉ bán mấy ngày nằm ì trong nhà, lão ốm thật hay ốm giả, lão đang nghĩ gì chả ai biết được. Chuyện cũ đã tưởng chìm vào quên lãng cho đến ngày nhà lão Trung trở nên giàu có, quyền lực, uy thế lẫy lừng cả xóm Biển. Lão dám tuyên bố ngày xưa bà vợ hai của bác Việt có quan hệ với lão và Trường Sa, Hoàng Sa là hai thằng con ruột của lão. Thế mới đáng sợ chứ! Hoàng Sa, Trường Sa chả là đang có của chìm, của nổi, hai anh em lại đẹp trai, cao ráo dễ thương được rất nhiều người để ý. Lão Trung đã giàu sụ, bành trướng khắp nơi rồi lại còn muốn vơ cả Trường Sa, Hoàng Sa của nhà bác Việt nữa thì thật là quá đáng! Cả xóm Biển này ai mà chẳng biết đức hạnh của bác Việt gái nhỏ, ngày vợ chồng bác Việt dọn đến tay bác ấy dắt Trường Sa mới hai tuổi, bụng mang bầu Hoàng Sa. Ngày ấy chả ai biết lão Trung là ai cả, thế mà lão dám trở mặt thớt dùng quyền và tiền ép bác Việt phải nhận Hoàng Sa, Trường Sa là con lão, thật trắng trợn, trơ trẽn đến cùng cực!

Đương nhiên đời nào bác Việt chịu chuyện vô lý đến thế, có điều gia đình bác ấy bị ảnh hưởng rất nặng nề về sự việc này. Con cái bác Việt chia làm hai phe; phe được sống và giáo dục trong gia đình nề nếp của bác Việt và bà vợ hai của bác thì chống đối lão Trung quyết liệt; phe kia là lũ con hoang thất học lại nghèo khổ giờ được lão Trung dùng tiền mua chuộc, dụ dỗ nên cùng nhau về ùa với lão ép bức cha ruột và anh em mình phải cúi đầu tuân phục lão Trung. Khổ nỗi phe này đang được thời nên thẳng tay đàn áp phe kia tơi bời, bác Việt đau lòng lắm khi nhìn thấy cảnh huynh đệ tương tàn này nhưng đành thúc thủ. Tôi ngậm ngùi:

-         Giá như còn bác Mỹ, tỉnh trưởng tỉnh nhà mình khi xưa bố nhỉ? Ngày ấy bác Mỹ cũng là “ho ra bạc, khạc ra vàng”, uy thế lẫy lừng nhưng không làm việc quá vô đạo đức, thâm độc như lão Trung. Ngày ấy, lão Trung nghèo kiết xác, sợ bác Mỹ một phép.

Bố tôi lắc đầu thở dài:

-         Bác Mỹ nhà mình hết thời rồi con à! Nghe đâu bây giờ bác ấy cũng đang nhờ vả gì đó ở lão Trung nên có nói năng cũng phải dè dặt, sợ lão giận đấy.

-         Thế thì còn gì để nói nữa!

Thấy tôi có vẻ bực tức không vui, mẹ ôn tồn bảo:

-         Con ạ! Mẹ dạo này hay nghe đọc kinh, thuyết Pháp để tìm hiểu sâu sắc hơn về đạo Phật cao siêu nhiệm màu chứ không phải đơn giản chỉ biết đi chùa thắp hương, cầu khấn rồi thôi. Từ đó mẹ hiểu rằng trên đời này không có gì qua khỏi luật nhân quả. Kẻ đắc chí hôm nay mà không biết tạo phúc không thể vĩnh viễn yên ổn mai sau. “Gieo nhân nào thì gặt quả ấy” lưới trời thưa nhưng sợi tóc không lọt qua. Khi đủ duyên phần thì tự khắc hậu quả sẽ đến ngay thôi.

Bố Bố tôi gật đầu đồng tình:

-         Năm rồi, nhà lão Trung xây cất thế nào mà bị sụt móng, hai đứa cháu nội bị đè chết oan uổng, chắc là quả báo đầu tiên đấy.

Tôi hơi ngạc nhiên vì năm vừa rồi xảy ra chuyện thế mà sao năm nay nhìn nhà lão Trung như chẳng có gì xảy ra, căn biệt thự được xây lại nhanh chóng và càng hoành tráng, lộng lẫy hơn lên. Nhưng  thôi có lẽ mẹ tôi nói đúng, mọi việc còn phải chờ xem cái đã.

-         Thế hai anh em Hoàng Sa, Trường Sa dạo này ra sao rồi, bố mẹ có tin gì của tụi nó không?

-         Chúng nó cũng tội nghiệp lắm, ngơ ngơ ngẩn ngẩn chả biết tương lai sẽ ra sao? Lão Trung mua chuộc cả giới có chức có quyền của gần hết xóm Biển và lũ con hoang vô lại của bác Việt rồi. Lực lượng chống đối khá yếu ớt, còn dân tình như gia đình mình thấp cổ bé miệng nói năng được gì.

 

Lòng tôi dậy lên một nỗi xót xa, thương cảm cho cả hai anh em Hoàng Sa, Trường Sa, cho gia đình bác Việt và hết cư dân xóm Biển thân thương hiền hòa đang chịu đựng sự cai trị ngấm ngầm tàn độc của lão Trung hàng xóm kia.

Rồi biết bao nạn nhân vô tội của cái món thuốc “Thần dược hổ lốn” nữa, chẳng lẽ vài chục năm nữa xóm Biển biến thành một nghĩa trang khổng lồ hay sao? “Thần dược hổ lốn” tung ra khắp đầu đường xó chợ rồi, làm sao ngăn chặn được. Tôi rùng mình ngừng đũa nhìn chằm chằm vào đĩa rau xanh trước mặt, mẹ hiểu ý trấn an:

-         Ngày xưa đi chợ, mẹ phải chọn rau tươi, không có sâu, quả to chín mọng mới ngon. Bây giờ thì phải chú ý chọn rau nào có sâu ăn, quả èo uột, tôm bé, cá còi thì mới yên tâm là không có chất độc của “Thần dược hổ lốn” bên trong.

 

Hóa ra là như thế, thảo nào tôi vừa mới ngỏ ý đãi cả nhà đi ăn tiệm làm ai cũng hết hồn lắc đầu lia lịa rằng quán ăn nhà hàng là “kho” chứa chất độc kinh khủng lắm.

 

Ngày cuối cùng về lại Âu Châu, bố mẹ và các em tiễn tôi ở phi trường, nhìn những khuôn mặt thân thương đang phải bị sống bất an bên cạnh lão hàng xóm giàu sụ, vô lương tâm kia, tim tôi đau nhói.  Tôi tự hứa với lòng có dịp nhất định sẽ về lại dù chỉ được ngồi ăn cùng bố mẹ và các em rau sâu, cá còi, tôm bé cũng vui lòng. Tôi muốn chia xẻ nỗi lo lắng của cả gia đình với tất cả tình yêu thương chân thành nhất và không muốn nhà mình lâm vào cảnh “huynh đệ” tương tàn vì tiền, vì quyền lực như gia đình bác Việt đáng thương kia.

 

 

 

Thi Thi Hồng Ngọc.

Tháng 6-2013.


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2018(Xem: 4433)
40 Năm Ở Mỹ, sách của TT Thích Từ Lực
11/01/2018(Xem: 5082)
Vào những năm đầu của thập niên 2000, khi cây bút đang còn sung sức, tôi viết rất nhiều bài về danh lam thắng cảnh trên quê hương Nha Trang của mình để giới thiệu trên các báo và tạp chí khắp đất nước. Trong số đó, hiển nhiên là có bài viết về ngôi chùa đã lưu nhiều hình ảnh, dấu ấn kỷ niệm vào ký ức tuổi thơ của tôi với tên gọi thân quen mộc mạc: “Chùa Núi Sinh Trung”.
08/01/2018(Xem: 11179)
Hồi còn tại thế xưa kia Trên đường giáo hóa Phật đi qua làng Ngài đi cùng ông A Nan Khai tâm gieo ánh đạo vàng giúp dân. Đang đi ngài bỗng dừng chân Bước quanh lối khác có phần xa thêm Ông A Nan rất ngạc nhiên Vội lên tiếng hỏi. Phật liền giảng ra: "Này A Nan phía trước ta Có quân giặc cướp thật là hiểm nguy Sau ta ba kẻ đang đi Gặp quân giặc đó khó bề thoát qua!"
08/01/2018(Xem: 9356)
Ở bên Ấn Độ thuở xưa Nơi thành Xá Vệ, buổi trưa một ngày Gia đình kia thật duyên may Phật thương hóa độ, dừng ngay tại nhà, Tiếc thay chồng vợ tỏ ra Tham lam, độc ác, xấu xa, hung tàn. Hóa thành một vị đạo nhân Phật đi khất thực dừng chân trước thềm Ôm bình bát, đứng trang nghiêm, Anh chồng đi vắng, vợ liền nhảy ra Tay xua đuổi, miệng hét la
07/01/2018(Xem: 7746)
Sau mỗi lần có dịp viếng thăm các chứng tích như tượng đài, lăng mộ, viện bảo tàng, nhà lưu niệm, ..., của những nhân vật mà cuộc đời phần nào liên quan đến đời sống vật chất hay tinh thần, sự thịnh suy ,... của một nhóm người, một dân tộc, một vùng, một quốc gia,..., tôi ra về lòng những bâng khuâng với hai câu : Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên.
21/12/2017(Xem: 3772)
Anh sinh ra và lớn lên ở miền gió cát khô nóng Phan Rang. Là một Phật tử thuần thành, lại được phước báu khi có đến hai người con trai xuất gia, nên nhân duyên đưa đẩy đã trở thành đạo hữu của tôi qua nhiều lần hội ngộ lạ lùng ở các thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Kết tình đạo hữu với nhau đã gần mười năm rồi, mỗi lần gặp mặt, tôi và anh đều tay bắt mặt mừng, trò chuyện thân mật, nhưng người huyên thiên lúc đàm đạo là anh, còn tôi thì cứ chỉ biết gật gù, mỉm cười, họa hoằn lắm mới buông một đôi câu phụ họa. Anh quý mến tôi ở điểm đó.
15/12/2017(Xem: 6312)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 87074)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
29/11/2017(Xem: 6613)
Trong loạt bài Kể Chuyện Đường Xa lần này, người viết đặt thêm tên cho mục này Vòng Quanh Thế Giới, để có cùng tên với loạt phóng sự sẽ đưa lên tvtsonline.com.au với nhạc hiệu mở đầu của bài “Vòng quanh thế giới” người viết sáng tác gần bốn thập niên trước đây. Từ năm 1990, chúng tôi đã bắt đầu viết bút ký với chuyến đi Bangkok (Thái Lan) và loạt bài cuối cùng là chuyến du lịch Âu Châu vào năm 2015.
27/11/2017(Xem: 4835)
Nếu chấp nhận thuyết nhân duyên của Đạo Phật thì có thể dễ dàng, giải thích cho mọi tình huống và mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời nầy. Nhân duyên hay duyên sanh cũng tương tự với nhau. Đó là: „Cái nầy có cho nên cái kia có; cái nầy sanh cho nên cái kia sanh. Cái nầy diệt, cho nên cái kia cũng diệt theo“. Không ai trong chúng ta có thể biết trước được việc gì sẽ xảy đến cho mình về sau nầy cả; dầu cho chúng ta có cố gắng làm mọi việc tốt đẹp trong hiện tại; nhưng dư báo trong quá khứ, ai biết được thiện, ác còn lại bao nhiêu mà lường được. Chỉ khi nào nắp quan tài đậy lại trong kiếp nầy, thì lúc ấy ta mới biết được cái quả trong hiện tại là cái nhân như thế nào mà trong quá khứ của chúng ta đã gây ra và chính cái quả của ngày hôm nay sẽ là cái nhân cho ngày sau nữa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]