Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 12: Kiến Tánh Minh Tâm

24/06/201317:57(Xem: 8910)
Chương 12: Kiến Tánh Minh Tâm

Kho báu nhà Thiền

Chương 12: Kiến tánh minh tâm

Ðịnh Huệ

Nguồn: Thiền sư Văn Thủ, Dịch giả: Ðịnh Huệ

Ðại sư Ðạt Ma bảo Nhị Tổ:
- Ông chỉ cần ngoài dứt các duyên, trong không nghĩ tưởng, tâm như tường vách thì có thể vào đạo.
Nhị Tổ nói tâm nói tánh đủ thứ mà vẫn không khế hội. Một hôm chợt ngộ, Ngài bèn thưa:
- con đã dứt được các duyên.
Ðạt Ma bảo:
- Không thành đoạn diệt chăng?
- Thưa không.
Ðạt Ma hỏi:
- Ông làm gì?
Nhị Tổ thưa:
- Rõ ràng thường biết, nói chẳng thể đến.
Ðạt Ma bảo:
- Ðây là tâm thể của chư Phật đã truyền, chớ có hồ nghi.

Tông Môn Thống Yếu

Phật bảo A nan:
Ta thường nói: Thân ông, tâm ông đều là vật hiện trong diệu minh chân tinh diệu tâm, tại sao các ông lại bỏ mất cái bổn diệu viên diệu minh tâm bảo minh diệu tánh ấy mà nhóm họp các duyên dao động bên trong, đuổi theo cái tướng mờ tối nhiễu loạn bên ngoài rồi cho đó là tâm tánh? Một khi mê nó làm tâm thì chắc chắn lầm cho là ở trong sắc thân, mà chẳng biết ngoài sắc thân cho đến núi sông, hư không, đất đai đều là vật trong diệu minh chân tâm, ví như bỏ trăm ngàn biển cả trong trẻo để nhận một bọt nước cho đó là toàn thể biển cả mênh mông.

Kinh Lăng Nghiêm

Vua Dị Kiến hỏi Tôn giả Ba La Ðề:
- Phật là gì?
Tôn giả đáp:
- Thấy tánh là Phật.
- Thầy thấy tánh chưa?
- Tôi thấy phật tánh.
- Tánh ở chỗ nào?
- Tánh ở tại tác dụng v.v…
Tôn giả bèn nói kệ rằng:
Tại thai là thân
Ra đời là người
Tại mắt là thấy
Tại tai là nghe
Tại mũi biết mùi
Tại miệng đàm luận
Tại tay cầm nắm
Tại chân đi chạy
Hiện khắp đều trùm sa giới
Thâu gồm tại một vi trần
Thức giả biết là Phật tánh
Người ngu gọi đó tinh hồn.

Hội Nguyên

Hòa thượng Ðại Ðiên ở Triều Châu nói:
Người học đạo cần phải biết bổn tâm của mình đem tâm chỉ cho nhau thì mới có thể thấy đạo. Tôi thấy đương thời có nhiều người chỉ nhận cái nhướng mày, chớp mắt, một nói một nín, gật đầu ấn khả cho đó là tâm yếu. Những người nầy thật ra họ chưa rõ. Tôi nay nói minh bạch cho các ông nghe, mỗi người phải gắng nhận: Chỉ cần trừ sạch hết các vọng niệm, kiến giải, thì ngay đó là chân tâm của ông. Tâm này, lúc cùng với trần cảnh cả lúc giữ cho yên tịnh hoàn toàn không có chút gì dính dáng. Chính tâm này là Phật, chẳng đợi tu sửa. Sao vậy? vì ứng dụng của nó trọn bất khả đắc, nên gọi là diệu dụng. Bản tâm nầy rất cần phải hộ trì, không nên khinh thường.

Truyền Ðăng Lục

Thiền sư Bảo Tháp Thiệu Nham dạy chúng:
Các ông được minh tâm chưa? Nếu chưa, thì chẳng lẽ lúc đàm luận nói cười, lúc im lặng không nói, lúc tham tầm thiện tri thức, lúc đạo bạn thương lượng, lúc du sơn ngoạn thủy, lúc tai mắt bặt trần tâm của ông? Kiến giải như trên đều thuộc về ma mị, đâu thể gọi là minh tâm?
Còn có một loại người nữa lìa vọng tưởng trong thân, riêng nhận khắp cả mười phương thế giới bao hàm nhật nguyệt thái hư ở bên ngoài cho đó là chân tâm xưa nay, đây cũng là điều của ngoại đạo chấp, chứ không phải là minh tâm.
Các ông muốn hội chăng? Tâm không phải cũng không chẳng phải, ông toan chấp nhận có thể được sao !

Hội Nguyên

Hòa thượng Chân Tịnh nói:
Phật pháp vô cùng vi diệu không có hai, những người chưa đến được chỗ vi diệu thì thấy có hay dở đối đãi. Nếu như người đến chỗ vi diệu rồi thì đó là người ngộ tâm. Người đó biết đúng như thật rằng tâm mình rốt ráo xưa nay thành Phật, người đó thật sự tự tại, thật sự an vui, thật sự giải thoát, thật sự thanh tịnh, và hằng ngày chỉ dùng tự tâm, tự tâm biến hóa nắm được liền dùng chứ không luận phải hay không phải, hễ đem tâm toan tính thì liền không phải. Tâm chẳng toan tính thì mỗi mỗi thiên chân, mỗi mỗi minh diệu, mỗi mỗi như hoa sen chẳng dính nước, tâm nầy thanh tịnh còn hơn cả hoa kia. Do đó, mê tự tâm nên làm chúng sanh, ngộ tự tâm nên thành Phật, mà chúng sanh tức Phật, Phật tức chúng sanh, do có mê ngộ mà có Phật, có chúng sanh vậy.

Chánh Pháp Nhãn Tạng

Thiền sư Bá Trượng nói nới Quy Sơn:
Muốn biết nghĩa Phật tánh phải quán thời tiết nhân duyên. Thời tiết đã đến, như mê chợt ngộ, như quên bỗng nhớ, mới biết vật của mình chẳng từ người khác mà được, cho nên Tổ sư nói: "Ngộ rồi đồng chưa ngộ, không tâm cũng không pháp, chỉ cần không có tâm hư vọng chấp phàm chấp thánh, xưa nay tâm pháp vốn tự đầy đủ". Ông nay đã được như thế, phải khéo tự giữ gìn!

Hội Nguyên

Có vị Tăng hỏi Ngài Ngưỡng Sơn:
- Hòa thượng thấy người đến hỏi thiền hỏi đạo, bèn vẽ một vòng tròn trong đó viết chữ NGƯU, là ý gì?
Ngài Ngưỡng Sơn đáp:
- Cái ấy cũng là việc không đâu. Nếu chợt hội được thì cũng chẳng từ bên ngoài đến. Nếu không hội thì quyết chắc là không biết.
Ta hỏi lại ông: Bậc lão túc ở các nơi, ngay trên cái thân của ông, chỉ ra cái gì là Phật tánh? Nói là phải hay nín là phải, hay chẳng nói chẳng nín là phải, hay lại đều là phải, hay lại đều là không phải? Nếu ông nhận nói là phải thì như người mù sờ đuôi voi. Nếu ông nhận nín là phải thì như người mù sờ tai voi. Nếu ông nhận chẳng nín chẳng nói là phải thì như người mù sờ vòi voi. Nói vật vật đều phải thì như người mù sờ nhằm bốn chân voi. Nếu bảo đều chẳng phải tức là ném bỏ con voi nầy, rơi vào không kiến. Chỗ thấy của các người mù kia chỉ ở nơi danh mạo sai biệt trên con voi. Ðiều tối cần là ông chớ sờ voi, chớ nói thấy biết là phải, cũng chớ nói là không phải. Tổ sư nói:
Bồ đề vốn không cội
Gương sáng cũng không đài
Xưa nay không một vật
Chỗ nào dính bụi nhơ?
Lại nói: "Ðạo vốn không hình tướng, trí huệ tức là đạo, người có kiến giải nầy gọi là chân Bát nhã". Người có mắt sáng thấy được toàn thể con voi thì thấy tánh cũng như vậy.

Bích Nham

Hòa thượng Nham Ðầu dạy chúng:
Luận về việc trong đại thống cương tông cần phải biết cú(câu), nếu không biết cú thì khó hội được lời nói. Cái gì là cú? Lúc trăm việc chẳng nghĩ gọi là chánh cú, cũng gọi là cư đảnh, cũng gọi là đắc trụ, cũng gọi là lịch lịch (rõ ràng), cũng gọi là tỉnh tỉnh, cũng gọi là chắc thực, cũng gọi là đắc địa, cũng gọi là lúc ấy. Ngay khi ấy đồng phá tất cả thị phi, vừa như thế liền chẳng như thế, bèn lăn trùng trục. Nếu thấy chẳng thấu thì vừa bị người hỏi đến mắt trợn trừng như con dê bị giết chưa chết. Chẳng thấy Cổ Nhân nói: "Hôn trầm chẳng tốt, cần phải chuyển được mới tốt" đó sao?

Chánh Pháp Nhãn Tạng

Hòa thượng Chương Kỉnh thượng đường dạy:
Chỗ tột cùng của đạo lý là bặt dứt nói năng, thế mà người đương thời chẳng hiểu lại cố tập việc khác cho là công năng. chẳng biết tự tánh vốn chẳng phải trần cảnh mà là cái cửa giải thoát vi diệu có giác chiếu soi chẳng nhiễm chẳng ngại, ánh sáng ấy chưa từng thôi dứt, nhiều kiếp đến nay vốn không biến đổi, giống như mặt trời xa gần đều chiếu, tuy đến với các hình sắc mà chẳng cùng tất cả hòa hợp. Ngọn đuốc linh sáng nhiệm mầu chẳng phải nhờ trui luyện, vì không rõ biết nên chấp vào vật tượng cũng như dụi mắt vọng khởi lên hoa đốm trong hư không, luống tự nhọc nhằn trải qua nhiều kiếp một cách oan uổng. Nếu phản chiếu được thì không có người thứ hai, cử chỉ hành động đều không thiếu thật tướng.

Hội Nguyên

Phù Sơn Viễn Công bảo Thủ tọa Diễn:
Tâm là chủ của cả một thân, là gốc của muôn hạnh. Tâm chẳng diệu ngộ thì vọng tình tự sanh. Vọng tình đã sanh thì thấy lý chẳng rõ. Thấy lý chẳng rõ thì phải quấy nổi lên. Do đó, trị tâm cần phải cầu diệu ngộ, ngộ rồi thì tinh thần điều hòa, tánh khí diềm tĩnh, dung mạo cung kính, hình sắc trang nghiêm, vọng tưởng tình lự đều tiêu dung thành chân tâm. Lấy đây để trị tâm thì tâm tự linh diệu, sau đó dẫn dắt mọi người, chỉ cho họ biết cái chỗ mê thì ai mà chẳng theo học!
Phật dạy:
Tất cả chúng sanh nhận lầm tứ đại làm thân tướng của mình, bóng dáng sáu trần làm tâm tướng của mình, ví như người bệnh mắt thấy hoa đốm trong hư không và thấy mặt trăng thứ hai, nên gọi là vô minh.

Kinh Viên Giác

Phật dạy:
Ông dùng tâm phan duyên nghe pháp thì pháp nầy cũng là duyên.
Phật dạy:
Dùng tâm suy nghĩ để đo lường cảnh giới viên giác của Như Lai như đem lửa đom đóm đốt núi Tu Di.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 8847)
Ðại sư Lục tổ Huệ Năng, một nhân vật lịch sử đang đi vào huyền thoại. Sự tích của ngài, mặc dù đã được ghi chép trên giấy trắng mực đen là quyễn kinh Lục Tổ Pháp Bảo Ðàn, thế nhưng, những mẫu chuyện huyền hoặc về cuộc đời ngài, thỉnh thoảng vẫn làm mờ đi phần nào sự thực.
08/04/2013(Xem: 15496)
Nói đến luân hồi, nhiều người quan niệm đó như là chuyện xưa tích có, nhưng thật ra vô cùng mật thiết với đời sống thăng trầm của kiếp người mà chẳng mấy ai lưu tâm. Cũng như không khí hít thở hằng ngày rất thiết yếu cho đời sống, nhưng phần đông không mấy người để ý đến.
08/04/2013(Xem: 16802)
Bộ kinh Bách Dụ gồm 98 bài thí dụ của Phật nói do Ngài Pháp Sư Tăng Gia Tư Na sao lục trong kinh tạng. Hai thí dụ rốt sau: "Thuốc hay hòa trong đường phèn", "Dùng là gói thuốc A Dà Ðà" là của Pháp Sư tự soạn, để tổng dụ cho diệu lý đủ trong những thí dụ trên.
08/04/2013(Xem: 33979)
Bởi đời đức Phật Tỳ Bà Thi (Vipasyin), sau khi Phật Niết-bàn, chúng xây tháp thờ Xá-lợi, trong tháp có an trí một pho tượng Phật phết vàng. Lâu ngày pho tượng trên mặt bị lở khuyết. Khi ấy, ngài ca-diếp là thợ đúc vàng, có cô gái nhà nghèo, vì thấy mặt Phật hư khuyết, cô còn một đồng tiền vàng đem đến nhờ Ngài ca-diếp nấu ra để phết lại tượng Phật.Thấy cô phát tâm tu bổ tượng Phật, ngài rất hoan hỷ đứng ra làm chu tất việc nầy, nhơn đó, hai người cùng nguyện đời đời sẽ làm vợ chồng, mà coi như đôi tri-kỷ, chớ không vì tình dục.
08/04/2013(Xem: 12677)
Ước mong rằng người đọc cũng như người nghe truyện sẽ ghi nhớ mãi trong tâm cái nếp sống đạo đức chân chính cùng những lời khuyên dạy quý báu của vị Bồ Tát trong truyện để cùng nhau cố gắng noi theo hầu đạt được cái Chân, Thiện, Mỹ trong cuộc sống hàng ngày.
08/04/2013(Xem: 15021)
Từ ngày Ngài xuất hiện đến nay, trên hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua bao nhiêu lớp người trồi sụp, bãi bể nương dâu đã mấy lần thay đổi: những vết tích đã xoá nhoà trong trí nhớ của người đời, những nét chữ đã lu mờ trong sách sử. Di tích của Ngài tuy được giừ gìn trong các đền chùa tháp điện, cũng không khỏi lấm màu sắc thời gian.
08/04/2013(Xem: 16429)
Tôi viết tập truyện nhỏ này với niềm say mê thích thú chưa từng có. Một mình trên căn gác, suốt ngày tâm hồn đắm vào thế giới loài vật những cọp những beo, cáo, gấu, chìa vôi, bìm bịp, chèo bẻo... tôi tưởng như chúng đang chạy nhảy và đối thoại quanh tôi. Thật là những giờ phút kỳ diệu. Viết xong từng đoan, đọc lại, cười. Như đọc văn của ai. Thích hơn khi viết về Người, bởi nghĩ rằng viết về Người đã có nhiều ngòi bút khác viết rồi. Ðằng này do mình tưởng tượng dựng ra thì hy vọng chúng mang trọn vẹn bản sắc của tâm hồn mình.
08/04/2013(Xem: 12730)
Thuyết pháp giảng kinh, viết sách giáo lý nhà Phật hoặc in kinh sách đem phát cho mọi người xem, để họ sớm giác ngộ. Ðược như thế công đức vô lượng, đó gọi là pháp thí. Nếu không đủ điều kiện làm những việc ấy, . . .
08/04/2013(Xem: 16705)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda. Cả hai vị này đã từng sống nhiều năm tại Tây Tạng, từng tu tập thiền định và đi khắp nơi trong xứ sở huyền bí này hơn bất cứ người nước ngoài nào khác. Có thể nói họ hiểu Tây Tạng với bất tất cả những khía cạnh tâm linh, tâm lý, địa lý nhiều hơn cả phần đông người Tây Tạng.
08/04/2013(Xem: 3829)
Tháng 10 mùa thu, đề tài muôn thuở để bao văn nhân thi sĩ trên thế gian này múa bút. Kẻ tán tụng, người than van. Nhưng tựu trung không ai phủ nhận mùa thu đẹp với những chiếc lá vàng rơi phủ đầy lối đi, đường phố. Rồi thì khách bộ hành, những cặp tình nhân tay đan tay rảo bước đạp xào xạc trên lá vàng khô. Họ kéo cao cổ áo, nép vào nhau khi một làn gió nhẹ mơn man thổi đến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]