Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 7: Học Ngôn Hạnh Người Xưa

24/06/201317:33(Xem: 9074)
Chương 7: Học Ngôn Hạnh Người Xưa

Kho báu nhà Thiền

Chương 7: Học ngôn hạnh người xưa

Ðịnh Huệ

Nguồn: Thiền sư Văn Thủ, Dịch giả: Ðịnh Huệ

Thiền sư Viên Ngộ nói:
Phật đạo thênh thênh, phải siêng năng cực khổ lâu ngày mới có thể thành tựu được. Ðệ tử Tổ sư chặt tay đứng dưới tuyết, lưng mang đá giã gạo, gánh lúa, đẩy xe, làm vườn, nấu cơm, khai phá ruộng nương, bố thí nước trà, gánh đất, kéo cối đều là lập chí đoạn tuyệt thế tục, mãi mãi tự cường thì mới có thể viên thành sự nghiệp. Do đó, nói: Chưa có một pháp nào từ trong sự lười biếng giải đãi sanh.

Tâm Yếu

Thiền sư Viên Ngộ nói:
Tăng sĩ phải thống thiết với việc sanh tử, lo tiêu diệt sự chướng ngại của tri kiến tri giải, chứng triệt để cái nhân duyên lớn mà Phật Tổ đã truyền trao, chớ ham danh tiếng, hãy lui về chỗ chân thật đợi hạnh giải đạo đức đầy đủ, càng mai danh ẩn tích lại càng được người biết đến, các vị Thánh và Thiên long sẽ khen ngợi người này.
Ngài Hoàng Long nói:
Người chưa thấy tánh chẳng nên an nhiên khoanh ay bắt chước không làm, không tu.

Minh Xu Hội Yếu

Hòa thượng Ngũ Tổ Diễn nói:
Ngày nay người học đạo ở chốn tòng lâm thanh danh không nổi bật, chẳng được người tin tưởng, bởi vì giới hạnh không trong sạch, con người chẳng đứng đắn. Hoặc như vì cầu danh tiếng, lợi dưỡng mà phô trương cái vẻ hào nhoáng bên ngoài bèn bị bậc thức giả chê cười, cho nên cái lý yếu diệu bị ngăn che, tuy có đạo đức như Phật Tổ mà vẫn bị người nghe thấy nghi ngờ chẳng tin. Các ông sau này nếu có làm Trụ trì hãy lấy đây để tự cố gắng.
Diễn Tổ nói:
Cổ nhân thích nghe lỗi mình, mừng chỗ mình làm được điều lành, thường bao dung kẻ hãm hại mình, hậu đại kẻ ẩn chứa điều ác đối với mình, khiêm nhường để chơi với bạn, siêng năng để giúp đỡ chúng, chẳng vì sự được mất mà sanh hài lòng, nên ánh sáng rực rỡ chiếu khắp cả xưa nay vậy.
Thiền sư Tung Nhạc Nguyên Khuê nói:
Phải có tâm vì chúng sanh mà không có tâm nghĩ đến thân mình.

Hội Nguyên

Tăng sĩ hằng ngày dụng tâm đều không qua việc này.
Hòa thượng Ðại Giác Liễn nói:
Họa hoạn chứa ở chỗ sâu kín, phát ra tứ chỗ khinh suất.
Hòa thượng Quy Sơn nói:
Cử chỉ động tịnh nên theo bậc thượng lưu, chớ nên bắt chước theo bọn quê hèn.
Châu Hối Anh hỏi ngài Hối Ðường:
Người quân tử chẳng may có chút lỗi nhỏ mà có người nghe thấy, họ liền chỉ ra, còn kẻ tiểu nhân suốt ngày tạo ác mà chẳng bị cho là lỗi. Tại sao vậy?
Ngài Hối Ðường đáp:
Ðức của người quân tử ví như ngọc tốt, nếu bên trong có tỳ vết liền thất lộ ra bên ngoài, cho nên người thấy, họ cho rằng lạ chẳng thể không chỉ ra. Còn kẻ tiểu nhân hằng ngày làm các việc đều ác nên đâu cần phải nói.
Hòa thượng Hoàng Long Nam nói:
Tổn mình thì lợi người, lợi mình thì tổn người, cho nên sự được mất đâu có dễ gì cân nhắc!
Ngài Hoàng Long nói:
Cái học của Thánh hiền không phải vội vàng hấp tấp mà có thể thành được, mà cần phải tích lũy. Sự cần thiết của tích lũy là chuyên cần, ngăn dứt thị hiếu, tu hành chớ lười mỏi, về sau mở rộng đến chỗ đầy đủ mới có thể cùng tận được cái huyền diệu của thiên hạ.
Anh Thiệu Võ nói:
Vật lớn nhanh thì ắt gãy sớm, công chóng thành thì ắt dễ hoại. Chẳng nghĩ đến kế lâu dài mà thành công vội đều chẳng phải cái tư cách vĩ đại trường cửu. Ngày xưa, thị giả Mai ban đêm ngồi mãi không nằm, dùng gỗ tròn làm gối, vừa ngủ thì gối động, giận mình tỉnh dậy ngồi yên như cũ, và cho đó là sự thường. Hoặc có người nói là dụng tâm thái quá. Mai đáp: "Tôi đối với Bát nhã duyên phận mỏng manh; nếu chẳng khắc khổ gắng chí thì e những quen mê lầm mống khởi".

Thiền Môn Bảo Huấn

Hòa thượng Thủy An Nhất nói:
Xưa, các ngài Ðại Ngu, Từ Minh, Cốc Tuyền, Long Nha kết bạn với nhau cùng đến tham vấn ngài Phần Dương. Ðất Hà Ðông lạnh lắm, mọi người đều sợ, chỉ có Từ Minh là người có chí học đạo ngày đêm không lười mỏi, ban đêm ngồi thiền buồn ngủ bèn lấy dùi tự đâm vào thân và than rằng: "Cổ nhân vì việc lớn sanh tử mà không ăn, không ngủ; ta là hạng người nào mà lại dám phóng túng buông lung? Lúc sống thì vô ích, khi chết không để tiếng tăm về sau, ấy là tự bỏ mình vậy".
Ngày Từ Minh giã từ, Phần Dương than rằng: "Sở Viên nay đi, đạo của ta theo y về phương Ðông vậy."
Hòa thượng Linh Nguyên Thanh nói:
Bậc Tiên triết nói: Học đạo mà ngộ được đạo là khó, đã ngộ rồi gìn giữ được là khó, đã gìn giữ được mà làm được đó mới là khó. Nay đương khi làm thì sự khó khăn còn hơn ngộ và gìn giữ, bởi vì ngộ và gìn giữ chỉ cần tinh tấn cố gắng nơi bản thân mà thôi, còn làm thì phải có tâm bình đẳng thề đến chết luôn luôn lấy việc tổn mình lợi người làm nhiệm vụ. Nếu tâm không bình đẳng, thệ nguyện không kiên cố thì sự tổn ích sẽ đảo lộn, bèn rơi vào hạng thầy chạy theo dòng thế tục, ấy là điều đáng sợ vậy!
Ngài Linh Nguyên bảo Viên Ngộ:
Tăng sĩ dầu có tư cách kiến đạo mà nếu chẳng qua giai đoạn khắc khổ trui rèn thì đến khi phát dụng ắt thô bạo, chẳng những không bổ ích cho giáo môn mà còn e chuốc lấy cái họa nhục nhã nữa!
Hòa thượng Viên Ngộ nói:
Làm người ai không lỗi. Có lỗi mà hay sửa chữa, đó là điều lành lớn vậy! Xưa nay đều khen người biết sửa lỗi là bậc hiền, chứ không lấy người không lỗi cho là đẹp, cho nên việc làm của con người từ bậc thượng trí cho đến kẻ hạ ngu không ai tránh khỏi lầm lỗi, chỉ có người trí mới hay sửa lỗi làm lành, còn kẻ ngu phần nhiều hay che giấu lỗi lầm, tô điểm điều quấy. Sửa lỗi làm lành thì đức mỗi ngày một sáng, ấy gọi là quân tử. Còn trang sức lỗi lầm thì ác càng thêm nhiều, đây gọi là kẻ tiểu nhân. Thế nên, thấy việc nghĩa bỏ qua là chuyện thường tình; thấy điều lành vui theo là chỗ chuộng của bậc hiền đức. Vậy mong ông hãy được ý quên lời là hơn vậy!
Ngài Viên Ngộ bảo Phật Giám:
Sư ông Bạch Vân mỗi khi hành động cân nhắc một việc gì đều căn cứ theo xưa. Sư ông thường nói: "Làm việc mà chẳng căn cứ theo người xưa thì không phải phép. Tôi biết nhiều về ngôn hạnh của người xưa là để thành tựu cái chí của mình, nhưng chẳng phải tôi đặc biệt hiếu cổ, mà bởi vì người đời nay chẳng đủ phép tắc để cho tôi bắt chước".
Hòa thượng Bạch Vân Ðoan nói:
Thủ đạo an bần là bổn phận của tăng sĩ. Người vì sự khốn cùng hay hiển đạt mà ý chí tiêu tan hay dời đổi thì chưa đủ tư cách học đạo vậy.
Hòa thượng Phật Giám Cần bảo Phật Ðăng Tuân:
Bậc cao thượng chẳng lấy danh vị làm vinh, người đạt lý chẳng bị sự ép ngặt làm khốn, còn như vì mang ơn mà ra sức báo đáp, thấy lợi lộc mà trung thành, đều là chỗ làm của những kẻ trung hạ.
Ngài Phật Giám nói:
Nếu chẳng lo vì đạo thì tâm tiết tháo chẳng cao xa, xử thân thường nhàn hạ thì dụng chí không lớn. Cổ nhân đã nếm đủ mùi gian lao hiểm trở rồi mới hưởng được sự an vui suốt đời. Bởi vì việc khó khăn thì chí mới sắc bén, khắc khổ thì lo nghĩ mới sâu xa, mới có thể chuyển họa thành phước, chuyển vật làm đạo được. Tôi thấy người học đạo phần nhiều chạy theo vật dục mà quên đạo, trái với chỗ sáng mà vào chỗ tối, trang sức chỗ bất tài của mình để dối gạt người, tự cho mình là người trí, cưỡng ép người làm cái việc không thể làm nổi rồi khinh người rồi cho rằng mình cao. Làm như vậy là để dối người mà chẳng biết có bậc tiên giác chẳng thể dới được; làm như vậy là để che đậy người mà chẳng biết có cái công luận chẳng thể che đậy. Cho nên, kẻ tự cho mình là cao thì người lại cho là thấp.
Hòa Thượng Phật Nhãn Viễn nói:
Người ở chốn tòng lâm, lời nói việc làm, cử chỉ động tịnh trước phải trù liệu rồi sau mới làm, chớ nên hấp tấp. Hoặc tự mình không thể quyết đoán được thì nên thưa bậc kỳ cựu, rộng hỏi bậc tiên hiền để mở rộng sự thấy nghe, bổ túc vào chỗ thiếu sót, làm sáng tỏ chổ tối tăm, đâu nên làm khí thế hư ngụy khoe khoang để bày ra chổ xấu của mình! Nếu như trước có lỡ làm một việc sơ thất thì về sau có làm trăm điều hay cũng không cứu cãn được.
Hòa thượng Linh Nguyên nói:
Phàm người hằng ngày soi lại vào bên trong phần nhiều có thể sáng tỏ được, vừa theo sự việc chạy ra bên ngoài liền trái với viên dung, mất đi phát thể. Cho nên, người muốn nghĩ đến nhiệm vụ nối dòng Phật Tổ chỉ dạy dẫn đến kẻ hậu học thường phải tự kiểm trách.
Hòa thượng Tuyết Ðường Hạnh nói:
Người học đạo mà khí thắng chí là tiểu nhân, chí thắng khí là người ngay thẳng, khí cùng chí ngang nhau là hiền thánh đắc đạo. Người cứng cõi chẳng nghe theo lời khuyên răn can gián, đó là cái khí khiến như thế. Người ngay thẳng bị ép buộc làm việc bất thiện thà chết chứ không hai lòng, đó là cái chí nó đưa đến như thế vậy.
Hòa thượng Thảo Ðường Thanh nói:
Ngọn lửa cháy lan cả đồng nội phát sanh từ một đốm lửa nhỏ bé, thế nước lở núi tích chứa từ những giọt nhỏ li ti. Giọt nước thì nhỏ, chỉ một nắm đất có thể lấp ngay được, nhưng đến lúc thế đã mạnh thì nó làm trôi cả gỗ đá, san phẳng cả gò nổng. Ðốm lửa thì nhỏ, một gáo nước có thể dập tắt, nhưng đến lúc thế mạnh thì nó thiêu hủy cả thành ấp, đốt cháy cả núi rừng. Như vậy, nếu đem so sánh với nước ái dục, với lửa sân hận đâu có khác chi!
Ngài Thảo Ðường Thanh nói:
Người học đạo lập thân cần phải chánh đáng, đừng để cho người ta bàn trộm. Nếu một khi bị lời dị nghị thì trọn đời không thể lập thân được.
Hòa thượng Hối Ðường Tâm nói:
Ở trong chúng đông người, người hiền kẻ ác chung lộn, hóa môn rộng lớn, trong đó không dung thân sơ, chỉ tại thiếu sự chọn lọc. Ví như có người tài đức được mọi người ngưỡng mộ thì chẳng nên vì cái điều mình giận mà thưa thớt qua lại với người ấy. Nếu như người kiến thức tầm thường mọi người đều ghét bỏ thì cũng chẳng nên lấy cái điều mình thích mà gần gũi. Như thế thì người hiền tự tiến lên, kẻ ác tự rút lui thì tòng lâm được an ổn vậy.
Hòa thượng Tự Ðắc Huy nói:
Tăng sĩ nếu thật tình muốn hướng về con đường chân chánh thì dầu ngu cũng dùng được, còn nếu ôm lòng tà vạy thì dầu trí rốt cuộc cũng là hại. Ðại khái là người ở chốn lâm hạ tâm chí bất chánh thì dẫu có tài năng đi nữa cũng không thể lập thân được.
Hòa thượng Giản Ðường Cơ sáng suốt, điềm tĩnh, từ bi đối với chúng sanh, tăng sĩ nào có chút lỗi lầm, ngài che chở bảo hộ để thành cái đức của họ. Ngài thường nói: Con người ai mà không có lỗi lầm, biết sửa lỗi lầm là tốt đẹp.
Thiền sư Ðại Hụê nói:
Người học đạo, ngày tháng trôi suông chỉ vì cứ lo kiểm điểm công phu của người khác. Nếu như thường tự kiểm điểm thì đạo nghiệp chóng thành. Hoặc mừng, hoặc giận, hoặc tĩnh lặng, hoặc náo động đều là lúc để cho ta tự kiểm điểm cả.
Ngài Ðại Hụê nói:
Nghịch cảnh dễ phá, thuận cảnh khó phá, gặp nghịch cảnh chỉ cần tốn một chữ NHẪN, định tĩnh giây lát liền qua mất. Gặp thuận cảnh không có chỗ cho ông lẫn tránh, như nam châm gặp sắt, hai thứ tự nhiên đến hợp nhau làm thành một chỗ.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7454)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8366)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7138)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6017)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 6963)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5275)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3962)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8479)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 22802)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4602)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]