Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 7: Học Ngôn Hạnh Người Xưa

24/06/201317:33(Xem: 9092)
Chương 7: Học Ngôn Hạnh Người Xưa

Kho báu nhà Thiền

Chương 7: Học ngôn hạnh người xưa

Ðịnh Huệ

Nguồn: Thiền sư Văn Thủ, Dịch giả: Ðịnh Huệ

Thiền sư Viên Ngộ nói:
Phật đạo thênh thênh, phải siêng năng cực khổ lâu ngày mới có thể thành tựu được. Ðệ tử Tổ sư chặt tay đứng dưới tuyết, lưng mang đá giã gạo, gánh lúa, đẩy xe, làm vườn, nấu cơm, khai phá ruộng nương, bố thí nước trà, gánh đất, kéo cối đều là lập chí đoạn tuyệt thế tục, mãi mãi tự cường thì mới có thể viên thành sự nghiệp. Do đó, nói: Chưa có một pháp nào từ trong sự lười biếng giải đãi sanh.

Tâm Yếu

Thiền sư Viên Ngộ nói:
Tăng sĩ phải thống thiết với việc sanh tử, lo tiêu diệt sự chướng ngại của tri kiến tri giải, chứng triệt để cái nhân duyên lớn mà Phật Tổ đã truyền trao, chớ ham danh tiếng, hãy lui về chỗ chân thật đợi hạnh giải đạo đức đầy đủ, càng mai danh ẩn tích lại càng được người biết đến, các vị Thánh và Thiên long sẽ khen ngợi người này.
Ngài Hoàng Long nói:
Người chưa thấy tánh chẳng nên an nhiên khoanh ay bắt chước không làm, không tu.

Minh Xu Hội Yếu

Hòa thượng Ngũ Tổ Diễn nói:
Ngày nay người học đạo ở chốn tòng lâm thanh danh không nổi bật, chẳng được người tin tưởng, bởi vì giới hạnh không trong sạch, con người chẳng đứng đắn. Hoặc như vì cầu danh tiếng, lợi dưỡng mà phô trương cái vẻ hào nhoáng bên ngoài bèn bị bậc thức giả chê cười, cho nên cái lý yếu diệu bị ngăn che, tuy có đạo đức như Phật Tổ mà vẫn bị người nghe thấy nghi ngờ chẳng tin. Các ông sau này nếu có làm Trụ trì hãy lấy đây để tự cố gắng.
Diễn Tổ nói:
Cổ nhân thích nghe lỗi mình, mừng chỗ mình làm được điều lành, thường bao dung kẻ hãm hại mình, hậu đại kẻ ẩn chứa điều ác đối với mình, khiêm nhường để chơi với bạn, siêng năng để giúp đỡ chúng, chẳng vì sự được mất mà sanh hài lòng, nên ánh sáng rực rỡ chiếu khắp cả xưa nay vậy.
Thiền sư Tung Nhạc Nguyên Khuê nói:
Phải có tâm vì chúng sanh mà không có tâm nghĩ đến thân mình.

Hội Nguyên

Tăng sĩ hằng ngày dụng tâm đều không qua việc này.
Hòa thượng Ðại Giác Liễn nói:
Họa hoạn chứa ở chỗ sâu kín, phát ra tứ chỗ khinh suất.
Hòa thượng Quy Sơn nói:
Cử chỉ động tịnh nên theo bậc thượng lưu, chớ nên bắt chước theo bọn quê hèn.
Châu Hối Anh hỏi ngài Hối Ðường:
Người quân tử chẳng may có chút lỗi nhỏ mà có người nghe thấy, họ liền chỉ ra, còn kẻ tiểu nhân suốt ngày tạo ác mà chẳng bị cho là lỗi. Tại sao vậy?
Ngài Hối Ðường đáp:
Ðức của người quân tử ví như ngọc tốt, nếu bên trong có tỳ vết liền thất lộ ra bên ngoài, cho nên người thấy, họ cho rằng lạ chẳng thể không chỉ ra. Còn kẻ tiểu nhân hằng ngày làm các việc đều ác nên đâu cần phải nói.
Hòa thượng Hoàng Long Nam nói:
Tổn mình thì lợi người, lợi mình thì tổn người, cho nên sự được mất đâu có dễ gì cân nhắc!
Ngài Hoàng Long nói:
Cái học của Thánh hiền không phải vội vàng hấp tấp mà có thể thành được, mà cần phải tích lũy. Sự cần thiết của tích lũy là chuyên cần, ngăn dứt thị hiếu, tu hành chớ lười mỏi, về sau mở rộng đến chỗ đầy đủ mới có thể cùng tận được cái huyền diệu của thiên hạ.
Anh Thiệu Võ nói:
Vật lớn nhanh thì ắt gãy sớm, công chóng thành thì ắt dễ hoại. Chẳng nghĩ đến kế lâu dài mà thành công vội đều chẳng phải cái tư cách vĩ đại trường cửu. Ngày xưa, thị giả Mai ban đêm ngồi mãi không nằm, dùng gỗ tròn làm gối, vừa ngủ thì gối động, giận mình tỉnh dậy ngồi yên như cũ, và cho đó là sự thường. Hoặc có người nói là dụng tâm thái quá. Mai đáp: "Tôi đối với Bát nhã duyên phận mỏng manh; nếu chẳng khắc khổ gắng chí thì e những quen mê lầm mống khởi".

Thiền Môn Bảo Huấn

Hòa thượng Thủy An Nhất nói:
Xưa, các ngài Ðại Ngu, Từ Minh, Cốc Tuyền, Long Nha kết bạn với nhau cùng đến tham vấn ngài Phần Dương. Ðất Hà Ðông lạnh lắm, mọi người đều sợ, chỉ có Từ Minh là người có chí học đạo ngày đêm không lười mỏi, ban đêm ngồi thiền buồn ngủ bèn lấy dùi tự đâm vào thân và than rằng: "Cổ nhân vì việc lớn sanh tử mà không ăn, không ngủ; ta là hạng người nào mà lại dám phóng túng buông lung? Lúc sống thì vô ích, khi chết không để tiếng tăm về sau, ấy là tự bỏ mình vậy".
Ngày Từ Minh giã từ, Phần Dương than rằng: "Sở Viên nay đi, đạo của ta theo y về phương Ðông vậy."
Hòa thượng Linh Nguyên Thanh nói:
Bậc Tiên triết nói: Học đạo mà ngộ được đạo là khó, đã ngộ rồi gìn giữ được là khó, đã gìn giữ được mà làm được đó mới là khó. Nay đương khi làm thì sự khó khăn còn hơn ngộ và gìn giữ, bởi vì ngộ và gìn giữ chỉ cần tinh tấn cố gắng nơi bản thân mà thôi, còn làm thì phải có tâm bình đẳng thề đến chết luôn luôn lấy việc tổn mình lợi người làm nhiệm vụ. Nếu tâm không bình đẳng, thệ nguyện không kiên cố thì sự tổn ích sẽ đảo lộn, bèn rơi vào hạng thầy chạy theo dòng thế tục, ấy là điều đáng sợ vậy!
Ngài Linh Nguyên bảo Viên Ngộ:
Tăng sĩ dầu có tư cách kiến đạo mà nếu chẳng qua giai đoạn khắc khổ trui rèn thì đến khi phát dụng ắt thô bạo, chẳng những không bổ ích cho giáo môn mà còn e chuốc lấy cái họa nhục nhã nữa!
Hòa thượng Viên Ngộ nói:
Làm người ai không lỗi. Có lỗi mà hay sửa chữa, đó là điều lành lớn vậy! Xưa nay đều khen người biết sửa lỗi là bậc hiền, chứ không lấy người không lỗi cho là đẹp, cho nên việc làm của con người từ bậc thượng trí cho đến kẻ hạ ngu không ai tránh khỏi lầm lỗi, chỉ có người trí mới hay sửa lỗi làm lành, còn kẻ ngu phần nhiều hay che giấu lỗi lầm, tô điểm điều quấy. Sửa lỗi làm lành thì đức mỗi ngày một sáng, ấy gọi là quân tử. Còn trang sức lỗi lầm thì ác càng thêm nhiều, đây gọi là kẻ tiểu nhân. Thế nên, thấy việc nghĩa bỏ qua là chuyện thường tình; thấy điều lành vui theo là chỗ chuộng của bậc hiền đức. Vậy mong ông hãy được ý quên lời là hơn vậy!
Ngài Viên Ngộ bảo Phật Giám:
Sư ông Bạch Vân mỗi khi hành động cân nhắc một việc gì đều căn cứ theo xưa. Sư ông thường nói: "Làm việc mà chẳng căn cứ theo người xưa thì không phải phép. Tôi biết nhiều về ngôn hạnh của người xưa là để thành tựu cái chí của mình, nhưng chẳng phải tôi đặc biệt hiếu cổ, mà bởi vì người đời nay chẳng đủ phép tắc để cho tôi bắt chước".
Hòa thượng Bạch Vân Ðoan nói:
Thủ đạo an bần là bổn phận của tăng sĩ. Người vì sự khốn cùng hay hiển đạt mà ý chí tiêu tan hay dời đổi thì chưa đủ tư cách học đạo vậy.
Hòa thượng Phật Giám Cần bảo Phật Ðăng Tuân:
Bậc cao thượng chẳng lấy danh vị làm vinh, người đạt lý chẳng bị sự ép ngặt làm khốn, còn như vì mang ơn mà ra sức báo đáp, thấy lợi lộc mà trung thành, đều là chỗ làm của những kẻ trung hạ.
Ngài Phật Giám nói:
Nếu chẳng lo vì đạo thì tâm tiết tháo chẳng cao xa, xử thân thường nhàn hạ thì dụng chí không lớn. Cổ nhân đã nếm đủ mùi gian lao hiểm trở rồi mới hưởng được sự an vui suốt đời. Bởi vì việc khó khăn thì chí mới sắc bén, khắc khổ thì lo nghĩ mới sâu xa, mới có thể chuyển họa thành phước, chuyển vật làm đạo được. Tôi thấy người học đạo phần nhiều chạy theo vật dục mà quên đạo, trái với chỗ sáng mà vào chỗ tối, trang sức chỗ bất tài của mình để dối gạt người, tự cho mình là người trí, cưỡng ép người làm cái việc không thể làm nổi rồi khinh người rồi cho rằng mình cao. Làm như vậy là để dối người mà chẳng biết có bậc tiên giác chẳng thể dới được; làm như vậy là để che đậy người mà chẳng biết có cái công luận chẳng thể che đậy. Cho nên, kẻ tự cho mình là cao thì người lại cho là thấp.
Hòa Thượng Phật Nhãn Viễn nói:
Người ở chốn tòng lâm, lời nói việc làm, cử chỉ động tịnh trước phải trù liệu rồi sau mới làm, chớ nên hấp tấp. Hoặc tự mình không thể quyết đoán được thì nên thưa bậc kỳ cựu, rộng hỏi bậc tiên hiền để mở rộng sự thấy nghe, bổ túc vào chỗ thiếu sót, làm sáng tỏ chổ tối tăm, đâu nên làm khí thế hư ngụy khoe khoang để bày ra chổ xấu của mình! Nếu như trước có lỡ làm một việc sơ thất thì về sau có làm trăm điều hay cũng không cứu cãn được.
Hòa thượng Linh Nguyên nói:
Phàm người hằng ngày soi lại vào bên trong phần nhiều có thể sáng tỏ được, vừa theo sự việc chạy ra bên ngoài liền trái với viên dung, mất đi phát thể. Cho nên, người muốn nghĩ đến nhiệm vụ nối dòng Phật Tổ chỉ dạy dẫn đến kẻ hậu học thường phải tự kiểm trách.
Hòa thượng Tuyết Ðường Hạnh nói:
Người học đạo mà khí thắng chí là tiểu nhân, chí thắng khí là người ngay thẳng, khí cùng chí ngang nhau là hiền thánh đắc đạo. Người cứng cõi chẳng nghe theo lời khuyên răn can gián, đó là cái khí khiến như thế. Người ngay thẳng bị ép buộc làm việc bất thiện thà chết chứ không hai lòng, đó là cái chí nó đưa đến như thế vậy.
Hòa thượng Thảo Ðường Thanh nói:
Ngọn lửa cháy lan cả đồng nội phát sanh từ một đốm lửa nhỏ bé, thế nước lở núi tích chứa từ những giọt nhỏ li ti. Giọt nước thì nhỏ, chỉ một nắm đất có thể lấp ngay được, nhưng đến lúc thế đã mạnh thì nó làm trôi cả gỗ đá, san phẳng cả gò nổng. Ðốm lửa thì nhỏ, một gáo nước có thể dập tắt, nhưng đến lúc thế mạnh thì nó thiêu hủy cả thành ấp, đốt cháy cả núi rừng. Như vậy, nếu đem so sánh với nước ái dục, với lửa sân hận đâu có khác chi!
Ngài Thảo Ðường Thanh nói:
Người học đạo lập thân cần phải chánh đáng, đừng để cho người ta bàn trộm. Nếu một khi bị lời dị nghị thì trọn đời không thể lập thân được.
Hòa thượng Hối Ðường Tâm nói:
Ở trong chúng đông người, người hiền kẻ ác chung lộn, hóa môn rộng lớn, trong đó không dung thân sơ, chỉ tại thiếu sự chọn lọc. Ví như có người tài đức được mọi người ngưỡng mộ thì chẳng nên vì cái điều mình giận mà thưa thớt qua lại với người ấy. Nếu như người kiến thức tầm thường mọi người đều ghét bỏ thì cũng chẳng nên lấy cái điều mình thích mà gần gũi. Như thế thì người hiền tự tiến lên, kẻ ác tự rút lui thì tòng lâm được an ổn vậy.
Hòa thượng Tự Ðắc Huy nói:
Tăng sĩ nếu thật tình muốn hướng về con đường chân chánh thì dầu ngu cũng dùng được, còn nếu ôm lòng tà vạy thì dầu trí rốt cuộc cũng là hại. Ðại khái là người ở chốn lâm hạ tâm chí bất chánh thì dẫu có tài năng đi nữa cũng không thể lập thân được.
Hòa thượng Giản Ðường Cơ sáng suốt, điềm tĩnh, từ bi đối với chúng sanh, tăng sĩ nào có chút lỗi lầm, ngài che chở bảo hộ để thành cái đức của họ. Ngài thường nói: Con người ai mà không có lỗi lầm, biết sửa lỗi lầm là tốt đẹp.
Thiền sư Ðại Hụê nói:
Người học đạo, ngày tháng trôi suông chỉ vì cứ lo kiểm điểm công phu của người khác. Nếu như thường tự kiểm điểm thì đạo nghiệp chóng thành. Hoặc mừng, hoặc giận, hoặc tĩnh lặng, hoặc náo động đều là lúc để cho ta tự kiểm điểm cả.
Ngài Ðại Hụê nói:
Nghịch cảnh dễ phá, thuận cảnh khó phá, gặp nghịch cảnh chỉ cần tốn một chữ NHẪN, định tĩnh giây lát liền qua mất. Gặp thuận cảnh không có chỗ cho ông lẫn tránh, như nam châm gặp sắt, hai thứ tự nhiên đến hợp nhau làm thành một chỗ.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4651)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43777)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4381)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4325)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4234)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6350)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4616)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4030)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 24933)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24005)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]