Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 2

21/06/201313:45(Xem: 9380)
Phần 2

Góp nhặt lá Bồ Đề.

Phần 2

Hòa thượng Thích Tịnh Nghiêm

Nguồn: Hòa thượng Thích Tịnh Nghiêm

Gả Con Gái Cho Phật

Khi Phật còn tại thế, có ông Bà La Môn sanh một cô con gái.Lớn lên, cô đẹp tuyệt trần, như trong Cung Oán Ngâm Khúc diễn tả:
Chìm đáy nức cá lờ đờ lặn
Lửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa
Hương trời đắm nguyệt say hoa
Tây Thi mất vía Hằng Nga giựt mình.
Ông Bà La Môn thấy con cái ông xinh đẹp nên ông ước nguyện, "Ở trên đời này có chàng trai nào xinh đẹp như con ông thì ông mới gả. Không cần giàu nghèo." Ông chờ đợi tìm kiếm thời gian lau mà không gặp chàng trai nào đẹp trai ông gả con gái.
Một hôm, ông đi đường gặp Đức Phật. Ông thấy Đức Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, da Phật vàng ánh như tượng vàng. Ông ngắm say sưa và về nói với bà vợ rằng con mình đã có người sánh đôi rồi. Bà hỏi là ai, ông trả lời, "Đức Phật Thế Tôn." Bà vợ có tài coi dấu chân. Bà nói, "Theo dấu chân của Sa môn Cù Đàm thì Ngài là người đã ly dục, làm sao ông gả con gái?"
Ông nói, "Cứ đem đến rồi sẽ hay."
Ông bảo bà và gia nhân trang điểm cô con gái thật là lộng lẫy, rồi dùng xe hoa đưa cô đến chốn Phật.
Khi đến nơi, ông quỳ xuống thưa, "Bạch đức Thế Tôn, con có một đứa con gái tới tuổi trưởng thành, sắc đẹp tuyệt vời. Và con có nguyện, nếu có chàng trai nào xinh đẹp như con gái con thì con sẽ gả con gái cho cậu, không cần giàu nghèo. Đức Phật Thế Tôn có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, rất đáng được con gái hầu hạ, nâng khăn sửa túi."
Đức Phật dạy, "Con gái ông có thật sự xinh đẹp hoàn hảo không?"
Ông Bà La Môn trả lời, "Dạ, thật sự xinh đẹp, hoàn hảo."
Phật dạy, "Dưới con mắt ông thì xinh đẹp, hoàn hảo. Nhưng dưới con mắt ta thì không xinh đẹp, hoàn hảo tý nào.
"Cái đầu giống như cái sọ dừa. Trên đầu có tóc giống như đuôi ngựa. Hai mắt trong xanh nhưng nhặm đổ ghèn. Chiếc mũi dọc dừa khi cảm thì chảy nước. Cái miệng môi hồng, răng trắng, thì khạc ra đàm dãi. Thân hình nở nang, cân đối, xinh đẹp chỉ là máu thịt gân xương tanh hôi. Còn trong bụng, tim gan tỳ phổi cũng nhơ nhớp. Nhất là bao tử chứa một thùng phân và thận chứa một bô nước tiểu. Những thứ này ra ngoài, chủ nhân của nó cũng nhờm gớm, huống là người khác.
Phật dạy, "Ông đem con gái về đi, ta không dùng đâu!"
Ông Bà La Môn thưa, "Nếu Phật không nhận, con dâng cho vua Ưu Điền có được không?"
Phật nói, "Cái đó thì tùy ông."
Ông liền chở con gái ông đến dâng cho vua Ưu Điền.
Vua Ưu Điền sau khi nhận được người đẹp, đắm đuối yêu thương. Vua cất cung cho nàng ở, cung cấp nhiều cung nữ hầu hạ cô.
Qua lời thuyết pháp của Đức Phật, nếu cô là người có trí tuệ thì cô đã giác ngộ thân bất tịnh, nhơ nhớp của mình. Nhưng cô ngu si, lại tưởng Phật mắng cô. Cô rất tức giận Phật. Cô nghĩ, với sắc đẹp của cô thì có nhiều chàng trai giàu có, công tử, thái tử quỳ dưới chân cô để cầu sự yêu thương của cô. Thế mà Phật lại mắng cô thậm tệ. Phen này cô quyết báo thù Phật.
Khi cô được vua Ưu Điền sủng ái, đây là cơ hội tốt để cô trả thù Đức Phật. Cô mướn rất nhiều người đứng hai bên đường phố. Khi Phật và giáo đoàn của Phật đi khất thực, họ đã không cúng gì hết mà lại la mắng, chửi bới thậm tệ.
Ngài A Nan chịu không nổi, bạch Phật, "Bạch đức Thế Tôn, xin đức Thế Tôn đi nơi khác. Ở đây chỉ nhận toàn những lời chửi mắng mà thôi, họ không cúng gì."
Phật dạy Ngài A Nan, "Nếu đi chỗ khác bị chửi mắng nữa thì sẽ đi đâu?"
Ngài A Nan trả lời, "Chúng ta lại đi đến nơi khác nữa."
Phật dạy, "Phiền não sanh ở đâu thì phải diệt ngay ở đó. Nếu ta gặp khó, bỏ đi thì sẽ thì sẽ mất đất đứng. Việc này, một tuần lễ nữa sẽ hết." Nghe lời Phật dạy, Ngài A Nan yên tâm.
Quả thật, người gieo gió thì phải gặt bão, người làm ác thì phải bị quả báo xấu ác . Cô con gái ông Bà La Môn được vua yêu quý nên lộng hành, ganh ghét các cung nữ nên mướn người đốt cung điện giết chết cung nữ. Khi điều tra ra thủ phạm chính là nàng, nàng phải bị xử trị theo luật pháp hiện hành, tức là bị thiêu sống. Nhưng nhà vua còn thương tình nên đày ngày vào lãnh cung để sám hối tội lỗi.

Giả Chửa Hủy Báng Phật

Sau khi Phật thành đạo, Phật thuyết pháp làm cho vua quan, các nhà giàu có và dân chúng đều theo quy y Phật. Các ngoại đạo lép vế, nên chúng tìm cách hạ uy tín Phật.
Các người Bà La Môn đến nói với cô gái Chiến Già là tín đồ của họ.Hàng ngày cô trang điểm xinh đẹp, ôm bó hoa đi về hướng tịnh xá Kỳ Hoàn. Lúc Phật tử nghe pháp xong, trở về thấy cô xinh đẹp, có người hỏi cô đi đâu thì cô lặng thinh, mỉm cười, trông có vẻ bí mật.
Một tháng sau nữa thì cô trả lời thẳng thừng rằng, "Tôi đến tịnh xá Kỳ Hoàn. Đức Thế Tôn là người yêu của tôi." Khi cô đến trước cổng tịnh xá Kỳ Hoàn thì cô sẽ qua trụ xứ của ngoại đạo để nghỉ đêm.
Rồi một hôm, Phật đang thuyết pháp. Cô với 500 ông Bà La Môn đến. Cô đứng lên cắt ngang lời Phật. Cô nói, "Lời đức Thế Tôn nói thì hay lắm, nhưng việc làm của Ngài không tốt chút nào. Hôm nay em đã bụng mang dạ chửa mà đức Thế Tôn không ngó nghĩ gì hết. Nếu Ngài không làm gì thì giao em cho ông Cấp Cô Độc hay bà Tỳ Xá Khư lo liệu. Ngài thật là người bạc tình bạc nghĩa." Năm trăm ông Bà La Môn liền mắng chửi Phật thậm tệ.
Đức Phật hỏi, "Này, Chiến Già, ngươi nói thật hay là vu khống? Chuyện này chỉ có ta và ngươi biết mà thôi."
Cô Chiến Già trả lời, "Việc này chỉ có em và Thế Tôn biết mà thôi."
Đế Thính thấy việc dối trá tráo trở của ngoại đạo liền hóa ra bốn con chuột, leo lên mình cô, cắn các dây chằng phía trong. Một khúc gỗ tròn và một cái gối rớt xuống trước mặt mọi người.
Cô Chiến Già quá hổ thẹn, liền chạy, chạy mãi và rơi xuống hố mà chết. Năm trăm ông Bà La Môn cũng liền chuồn mất.
Đau buồn ngay ở kiếp này
Kiếp sau cũng lại tràn đầy buồn đau
Người làm điều ác hay đâu
Buồn xưa theo mãi dài lâu bên mình
Quay nhìn việc ác tạo thành
Chết mòn thân xác, héo nhanh tâm hồn.

Giết Người Vu Khống Cho Phật

Các ngoại đạo, sau vụ Chiến Già độn bụng giả chửa vu khống cho Phật, đã bị thất bại. Chúng lại bày ra vụ khác.
Ngoại đạo đến nói với cô gái Tôn Đà Lợi là đệ tử của họ, nên hy sinh vì đạo. Cô nhiệt tâm vì đạo, nên đồng ý nghe theo.
Hằng ngày, cô thường trang điểm xinh đẹp, tay ôm một bó hoa đến cúng dường Phật và nghe pháp. Thời gian sau, ngoại đạo mướn người bí mật giết cô, rồi đem chôn trong vườn tịnh xá Kỳ Hoàn, gần đống hoa tàn.
Sau đó, ngoại đạo đến báo vua Ba Tư Nặc rằng họ có một tín nữ, thường đến nghe pháp tại tịnh xá Kỳ Hoàn, không biết tại sao bị mất tích, xin nhà vua cho quân lính đi với họ để tìm kiếm. Nhà vua nghi họ có âm mưu ác độc, nhưng cũng cho quân lính đi theo.
Ngoại đạo đi kiếm đông, kiếm tây, rồi vào vườn tịnh xá Kỳ Hoàn đào xác cô gái lên. Ngoại đạo la ó, hô hoán, khóc lóc. Họ đem xác cô gái để trên một chiếc xe, chở đi trên các đường phố, miệng rao nói, "Sa môn Thích tử gì mà hãm hiếp người, rồi giết chết đem chôn phi tang. Đạo gì mà hành động quá độc ác. Trời ơi là trời!"
Các Phật tử khi nghe tin này, chưa biết thế nào, liền đi đến tịnh xá Kỳ Hoàn để hỏi Phật. Phật dạy, "Các Phật tử hãy bình tĩnh. Việc này sau 7 ngày sẽ chết."
Các Phật tử yên tâm ra về. Phật dạy chư tăng trong 7 ngày không đi khất thực.
Nghe Phật dạy như thế, nên vua Ba Tư Nặc nghi ngờ bọn ngoại đạo. Nhà vua cho thám tử đi điều tra. Bấy giờ, mấy người giết mướn chia tiền. Người thuộc kinh được nhiều tiền. Người thuộc kinh thì ít tiền. Do đó, những người được ít tiền đã nói, "Đã cùng giết người, tại sao người ít người nhiều?" Họ tranh cãi với nhau và đi tố cáo với nhà vua.
Nhà vua ra lệnh bắt hết đám ngoại đạo chủ mưu giết người, truy tố theo pháp luật hiện hành. Kẻ chủ mưu giết người thì phải bị đền mạng, còn những người tòng phạm thì bị phạt tù.
Thế mới biết, người gieo gió thì phải gặt bão, ác lai thì ác báo. Nhân quả rõ ràng, há không tin sao?

Giữ Giới Cao Hơn Thiền Định

Ngày xưa, ở nước Kế Tân, có con rồng làm mưa, làm gió, phá hại mùa màng. Nhưng đức vua và dân chúng ở đây không làm gì nó được vì nó có thần thông biến hóa.
Vì lòng từ bi, 500 đại đức tỳ kheo đến dùng thiền định để đuổi nónhưng nó không đi.
Có một vị tỳ kheo đến nói với con rồng rằng, "Nhà ngươi hãy đi chỗ khác. Đừng ở đây phá hoại mùa màng làm khổ dân chúng, sẽ mắc tội phải đọa địa ngục chịu khổ lâu dài." Con rồng nghe nói vậy liền bỏ đi. Dân chúng rất mừng rỡ và phát tâm kính tín Tam Bảo.
Các thầy tỳ kheo thiền định mới hỏi thầy tỳ kheo đuổi được rồng rằng, "thầy dùng pháp gì mà đuổi được rồng?"
Thầy tỳ kheo trả lời, "Tôi chỉ trì giới nghiêm túc. Giữ gìn cẩn mật từ giới trọng đến giới khinh một cách chu đáo thôi, không có gì khác lạ."
Vậy nên biết, công năng trì giới không thể nghĩ bàn. Trong kinh, Phật dạy: Trì một giới có năm vị thần hộ giới ủng hộ. Nếu thầy tỳ kheo giữ 250 giới chu đáo thì có rất nhiều vị thần hộ giới ủng hộ. Ngược lại, nếu không giữ giới sẽ bị các vị thần ấy quở trách, gặp nhiều sự không may. Vậy chư tỳ kheo, tỳ kheo ni, thiện nam, tín nữ phải nên giữ giới nghiêm túc, mới được nhiều lợi ích.
Đời nhà Đường, có Ngài Tuyên Luật Sư giữ giới luật nghiêm túc và hoằng truyền giới luật rộng sâu. Được Tôn Giả Tân Đầu Lô Phả La Đọa thị hiện đến khen ngợi rằng, "Ngài là người xiển dương luật học đệ nhất."
Một hôm, Ngài Tuyên Luật Sư có nhân duyên leo núi. Bất cẩn Ngài rơi xuống hố, lúc ấy Ngài mê man bất tỉnh. Khi tỉnh dậy, thấy mình nằm dưới bóng cây râm mát. Có rất nhiều chư thần đứng xung quanh Ngài. Tuyên Luật Sư hỏi, "Quý Ngài là ai? Và tại sao tôi lại nằm chỗ này?"
Chư thần trả lời, "Khi Hòa thượng gặp nạn, chúng con liền cứu Ngài. Thường ngày, chúng con vẫn thường hầu bên Ngài, nhưng không hiện hình nên Ngài không thấy. Hôm nay, Hòa thượng gặp nạn chúng con hiện thân cứu Ngài."
Thế mới biết, trì giới được công đức bất khả tư nghì, thậm thâm, vi diệu.

Gọi Cha Bằng Em

Ông Cấp Cô Độc là đệ tử tại gia của Phật. Ông là đại thí chủ, cúng tịnh xá Kỳ Hoàn cho Phật. Ông có một người con gái, lớn tuổi, không có chồng, cũng là đệ tử Phật. Cô tuy tại gia nhưng tu hành tinh tấn, chứng quả A Na Hàm.
Một hôm, biết mình sắp qua đời, nên cô mời cha đến từ giã và nói rằng, "Thôi, em ở lại cố gắng tu hành, chị đi về Tịnh Độ trước."
Nghe câu nói đó, ông Cấp Cô Độc rất buồn, không phải buồn vì mất con, mà buồn con không có hiếu, gọi cha bằng em.
Lo xong tang lễ con gái, ông đến yết kiến Đức Phật và đem điều đó thưa lên Phật. Phật dạy, "Con gái ông nói vậy là đúng. Theo tình gia đình, ông là cha. Nhưng theo chứng quả thì ông là em. Vì ông mới chứng quả Tu Đà Hoàn, còn con gái ông đã chứng quả A Na Hàm."
Nghe Phật dạy thế, ông hoan hỷ, hết buồn.

Hàn Sơn, Thập Đắc, Hai Vị Đầu Đà

Ở chùa Quốc Thanh, đời Đường bên Trung Hoa, một hôm Hòa thượng trụ trì đi đường lượm một em bé trai mới sinh bị người đem bỏ gần chùa. Hòa thượng đem về nuôi và đặt tên là Thập Đắc.
Lớn lên Thập Đắc hơi mát mát, không học kinh, không thọ giới, chỉ công quả quét dọn và nấu cơm cho chúng tăng. Nhưng khi nổi hứng lại hát múa lung tung. Không ai để y đến Thập Đắc.
Trong hang đá trên núi lại có một người tên là Hàn Sơn, thường xuống chơi với Thâp Đắc. Thập Đắc lấy cơm dư và thức ăn dư bỏ vào trong hai cái ống tre. Đến trưa, Hàn Sơn xuống vác đem về ăn.
Một hôm chúng tăng sai ông Thập Đắc làm hương đăng thì ông lại ngồi ăn chúng với các vị La Hán thờ trên bàn. Chúng tăng thấy quở trách và không cho ông làm hương đăng nữa.
Hoa màu của chùa trồng được, bị heo nai xuống ăn phá. Thập Đắc lên miễu, lật tượng ông Sơn Thần đánh mấy chục roi và bảo, "Tại sao không chịu giữ thú rừng để chúng xuống phá hại hoa màu của chùa.?"
Tối hôm ấy, chư tăng nằm chiêm bao thấy Sơn Thần nói ông bị Thập Đắc đánh đau quá. Sáng ra, chư tăng lên miễu Sơn Thần lật đít tượng lên, thầy lằn dấu roi vẫn còn. Chư tăng rất ngạc nhiên.
Một hôm chư tăng đang làm lễ bố tát trong chùa thì Thập Đắc lên núi lùa bầy trâu của dân làng xuống đứng chật sân chùa. Chư tăng ra quở, "Hôm nay là ngày bố tát của chư tăng, tại sao ông lại lùa trâu xuống chùa, làm ồn buổi bố tát?"
Ông Thập Đắc nói, "Quý thầy hãy ra xem. Lạ lắm."
Rồi ông kêu tên những thầy trụ trì các chùa đã quá cố. Kêu từng tên pháp hiệu trụ trì và từng chùa một, thì con trâu bước ra có vẻ buồn lắm. Ông nói, "Bầy trâu này, một số có tiền thân là các vị trụ trì không giữ giới, tham lam của Tam Bảo nên đọa làm trâu."
Chư tăng thấy tận mắt nhưng cũng chưa tin, cứ nghĩ ông Thập Đắc điên điên mà thôi.
Một hôm, vị thái thú sắp đổi đến tỉnh này, mới hỏi Hòa thượng Phong Can, vị này chuyên cỡi cọp, "Bạch Hòa thượng, ở nơi tỉnh con đổi tới, có vị cao tăng nào không?"
Hòa thượng Phong Can trả lời, "Có hai vị đại sĩ Hàn Sơn và Thập Đắc là hóa thân của Văn Thù và Phổ Hiền, ở chùa Quốc Thanh."
Sau khi nhậm chức xong, quan thái thú liền lên chùa Quốc Thanh để thăm. Chư tăng đón rước trọng hậu. Khi lên đến chùa, quan thái thú hỏi về Hàn Sơn và Thập Đắc thì chư tăng chỉ xuống nhà trù (nhà bếp). Ông đi xuống nhà trù, thấy hai Ngài Hàn Sơn và Thập Đắc đang nói chuyện, cười rất vui. Quan thái thú liền đảnh lễ ra mắt. Hai vị liền nói với nhau rằng, "Di Đà nhiều chuyện rồi." Rồi hai vị chạy vào núi mất dạng.
Người ta vào hang đông của Ngài Hàn Sơn thì thấy trên vách đá nhiều bài thơ rất hay và rất có giá trị về Phật pháp.
Quan thái thú liền trở về để ra mắt Hòa thượng Phong Can, nhưng khi đến nơi thì Ngài đã thị tịch.
Thế mới biết, ở cõi phàm thánh đồng cư này, chư Phật và Bồ Tát thường hóa thân xuống cứu độ, nhưng đều dấu tung tích. Đến khi bị lộ thì liền nhập diệt. Đúng như câu: "Thấy thì không biết, biết thì không thấy."

Hủy Hoại Nhan Sắc

Thuở xưa, ở nước Nhật, có một cô gái xinh đẹp tuyệt vời. Nhưng nhờ túc thế thiện căn nên, cô sớm nhận ra đời là vô thường, cuộc sống là khổ não. Với lý lẽ đó, cô tìm đến các thiền viện để xin tu.
Ngày xưa ở Nhật chỉ có thiền viện tăng, còn ni chỉ là tham dự thứ yếu mà thôi. Một hôm, cô đến thiền viện gặp hai vị thiền sư và xin được nhập chúng tu thiền. Thiền sư nhìn cô một hồi rồi từ chối với lý do cô quá xinh đẹp. Cô tìm đến thiền viện khác cũng bị từ chối cũng với lý do như vậy. Cô đến nhiều thiền viện cũng đều bị khước từ. Các thiền sư còn giải thích thêm sự có mặt của cô sẽ làm các thiền sinh xáo trộn tâm lý. Sắc đẹp ở khía cạnh nào thì tốt, nhưng ở khía cạnh đây không tốt chút nào.
Cô muốn tu thiền nhưng bị chướng ngại nhan sắc quá đẹp. Cuối cùng cô quyết định mà bất cứ một phụ nữ nào cũng không dám. Cô đã hủy hoại nhan sắc để được tu thiền. Cô đã đổi một giá rất đắt, nhưng cô đã toại nguyện và bù lại một cái cao đẹp hơn: cô đã liễu thiền đắc định.
Đây là một gương sáng cho giới nữ lưu nói riêng và người hành đạo nói chung.
Sắc đẹp ai cũng mến
Đi tu gặp chướng duyên
Nên cô đành hủy hoại
Để tu được bình yên.

Không Nhẫn, Khởi Tâm Ác

Ngày xưa, có một thiền sư tu trên núi. Ngài ngồi nhập định lâu ngày dưới gốc cây đại thọ, tóc Ngài ra dài phủ cả vai, cả mình. Ngài ngồi bất động giống như một bụi cây.
Có cặp chim thấy vậy tưởng là bụi cây bèn lót ổ ở trên đầu Ngài. Thiền sư từ bi nên không nở đứng dậy, sợ bể trứng chim.
Ngài nhập vô tưởng định, đợi cho chim nở khôn lớn mới xả định. Chim mái đẻ xong, chim trống ấp để chim mái đi kiếm mồi. Chim mái ấp thì chim trống đi kiếm mồi.
Một đêm nọ, chim mái không về, chim trống sốt ruột trông đợi. Sáng hôm sau, chim mái mới về, chim trống nổi cơn ghen, gạn hỏi chửi mắng, "Đêm hôm qua mày theo đứa nào, ngủ với thằng nào?"
Chim mái nói, "Do em mải bắt sâu, bị hoa sen úp lại, ra không được, đành phải ngủ trong hoa sen. Đợi sáng hoa nở mới về. Có gì đâu mà anh giận dữ quá vậy?"
Chim mái nói gì chim trống vẫn không tin, lại càng chửi mắng hơn. Chim mái không nhịn được nên hai bên cãi lộn ầm lên.
Vị thiền sư nhập định, có thiên nhĩ thông nên nghe tất cả và Ngài cũng không nhịn được, nghĩ rằng, "Mình đã từ bi để chúng đẻ trứng trên đầu, đại tiểu trên đầu, mà nay ghen tuông, kình lộn, chửi mắng nhau làm cho ta không nhập định được."
Bất giác, Ngài đưa tay lên đầu cào hết xuống. Mấy cái trứng chim gần nở con bị bể lăn lóc. Chim mẹ, chim cha bay đi, vừa giận tức vừa buồn khổ thương tâm.
Thế nên mới biết một niệm sân nổi lên tổn lòng từ bi biết là bao!

Lóc Thịt Thế Chim Bồ Câu

Vào đời quá khứ, có vua Thi Tỳ cai trị một nước rộng lớn, giàu vui, đông đúc. Nhà vua rất thương dân, dân cũng rất mến nhà vua.
Một hôm, nhà vua soi gương thấy trên đầu tóc đã có vài ba sợi tóc bạc. Nhà vua có trí nên ý thức được vô thường sanh diệt nên vua nhường ngôi cho con rồi lên núi tu thiền cầu giải thoát sanh tử, cứu độ chúng sanh.
Vua Đế Thích có thiên nhãn nên biết nhà vua tu thiền, không biết ý của vua muốn cầu làm Phạm Thiên hay Đế Thích … Đem ý kiến đó bàn với một thiên quan. Thiên quan nói, "Nếu Đế Thích muốn biết thì phải thử."
Thế rồi Đế Thích hóa làm chim ó. Thiên quan hóa làm chim bồ câu. Chim ó rượt chim bồ câu, chim bồ câu chạy vào lòng nhà vua cầu xin cứu mạng. Chim ó đến đòi chim bồ câu, vua Thi Tỳ không trả.
Chim ó nói, "Chim bồ câu là thức ăn của tôi. Ngài cứu nó nhưng để tôi chết đói thì đâu có gọi là từ bi."
Nhà vua nói, "Ta sẽ lóc thịt của ta tế cho nhà ngươi."
Ó nói, "Muốn cho công bình thì thịt Ngài phải cân bằng thịt bồ câu." Vua đồng ý.
Để chim bồ câu một bên, thịt nhà vua một bên, nhưng lạ lung thay, bao nhiêu thịt vẫn nhẹ hơn chim bồ câu. Cuối cùng, nhà vua định bước lên cân nhưng yếu sức, té xỉu.
Lúc đó, Thiên Đế Thích và thiên quan hiện nguyên hình và nói với nhà vua, "Ngài tu từ bi khổ hạnh như vậy, mục đích muốn cầu quả vị gì? Cầu làm Phạm Thiên, Đế Thích, hay chuyển luân thánh vương?"
Nhà vua trả lời, "Tôi tu hành, không cầu làm Phạm Thiên, Đế Thích hay chuyển luân vương, mà mục đích cầu thành Phật để hóa độ chúng sanh."
Đế Thích nói, "Thân Ngài hiện nay đau đớn, Ngài có hối hận không?"
Nhà vua nói, "Tôi không hối hận."
Đế Thích nói, "Làm sao biết Ngài không hối hận?"
Vua Thi Tỳ lập thệ rằng, "Xin mười phương chư Phật chứng minh. Nếu trong tâm tôi không có hối hận, thì xin thân thể tôi bình phục lại như cũ." Lạ lùng thay, vua vừa phát nguyện xong thì thân bình phục lại như cũ.
Thiên Đế Thích Ca ngợi tán dương và nói, "Ngài chắc chắn sẽ thành Phật," rồi lễ bái và biến mất.
Phật kết luận: Vua Thi Tỳ là tiền thân của ta. Vì xưa kia do lòng từ bi bố thí cả thân mạng cho chim ó nên mau thành Phật chứng quả như hôm nay.
Pháp thí thắng các thí
Pháp vị thắng các vị
Pháp hỷ thắng các hỷ
Pháp lạc thắng các lạc.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2018(Xem: 4434)
40 Năm Ở Mỹ, sách của TT Thích Từ Lực
11/01/2018(Xem: 5087)
Vào những năm đầu của thập niên 2000, khi cây bút đang còn sung sức, tôi viết rất nhiều bài về danh lam thắng cảnh trên quê hương Nha Trang của mình để giới thiệu trên các báo và tạp chí khắp đất nước. Trong số đó, hiển nhiên là có bài viết về ngôi chùa đã lưu nhiều hình ảnh, dấu ấn kỷ niệm vào ký ức tuổi thơ của tôi với tên gọi thân quen mộc mạc: “Chùa Núi Sinh Trung”.
08/01/2018(Xem: 11192)
Hồi còn tại thế xưa kia Trên đường giáo hóa Phật đi qua làng Ngài đi cùng ông A Nan Khai tâm gieo ánh đạo vàng giúp dân. Đang đi ngài bỗng dừng chân Bước quanh lối khác có phần xa thêm Ông A Nan rất ngạc nhiên Vội lên tiếng hỏi. Phật liền giảng ra: "Này A Nan phía trước ta Có quân giặc cướp thật là hiểm nguy Sau ta ba kẻ đang đi Gặp quân giặc đó khó bề thoát qua!"
08/01/2018(Xem: 9375)
Ở bên Ấn Độ thuở xưa Nơi thành Xá Vệ, buổi trưa một ngày Gia đình kia thật duyên may Phật thương hóa độ, dừng ngay tại nhà, Tiếc thay chồng vợ tỏ ra Tham lam, độc ác, xấu xa, hung tàn. Hóa thành một vị đạo nhân Phật đi khất thực dừng chân trước thềm Ôm bình bát, đứng trang nghiêm, Anh chồng đi vắng, vợ liền nhảy ra Tay xua đuổi, miệng hét la
07/01/2018(Xem: 7750)
Sau mỗi lần có dịp viếng thăm các chứng tích như tượng đài, lăng mộ, viện bảo tàng, nhà lưu niệm, ..., của những nhân vật mà cuộc đời phần nào liên quan đến đời sống vật chất hay tinh thần, sự thịnh suy ,... của một nhóm người, một dân tộc, một vùng, một quốc gia,..., tôi ra về lòng những bâng khuâng với hai câu : Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên.
21/12/2017(Xem: 3774)
Anh sinh ra và lớn lên ở miền gió cát khô nóng Phan Rang. Là một Phật tử thuần thành, lại được phước báu khi có đến hai người con trai xuất gia, nên nhân duyên đưa đẩy đã trở thành đạo hữu của tôi qua nhiều lần hội ngộ lạ lùng ở các thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Kết tình đạo hữu với nhau đã gần mười năm rồi, mỗi lần gặp mặt, tôi và anh đều tay bắt mặt mừng, trò chuyện thân mật, nhưng người huyên thiên lúc đàm đạo là anh, còn tôi thì cứ chỉ biết gật gù, mỉm cười, họa hoằn lắm mới buông một đôi câu phụ họa. Anh quý mến tôi ở điểm đó.
15/12/2017(Xem: 6326)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 87187)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
29/11/2017(Xem: 6629)
Trong loạt bài Kể Chuyện Đường Xa lần này, người viết đặt thêm tên cho mục này Vòng Quanh Thế Giới, để có cùng tên với loạt phóng sự sẽ đưa lên tvtsonline.com.au với nhạc hiệu mở đầu của bài “Vòng quanh thế giới” người viết sáng tác gần bốn thập niên trước đây. Từ năm 1990, chúng tôi đã bắt đầu viết bút ký với chuyến đi Bangkok (Thái Lan) và loạt bài cuối cùng là chuyến du lịch Âu Châu vào năm 2015.
27/11/2017(Xem: 4857)
Nếu chấp nhận thuyết nhân duyên của Đạo Phật thì có thể dễ dàng, giải thích cho mọi tình huống và mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời nầy. Nhân duyên hay duyên sanh cũng tương tự với nhau. Đó là: „Cái nầy có cho nên cái kia có; cái nầy sanh cho nên cái kia sanh. Cái nầy diệt, cho nên cái kia cũng diệt theo“. Không ai trong chúng ta có thể biết trước được việc gì sẽ xảy đến cho mình về sau nầy cả; dầu cho chúng ta có cố gắng làm mọi việc tốt đẹp trong hiện tại; nhưng dư báo trong quá khứ, ai biết được thiện, ác còn lại bao nhiêu mà lường được. Chỉ khi nào nắp quan tài đậy lại trong kiếp nầy, thì lúc ấy ta mới biết được cái quả trong hiện tại là cái nhân như thế nào mà trong quá khứ của chúng ta đã gây ra và chính cái quả của ngày hôm nay sẽ là cái nhân cho ngày sau nữa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]