Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

7. SỰ TÍCH PHẬT LỰC THỨ BẢY

30/05/201319:07(Xem: 6340)
7. SỰ TÍCH PHẬT LỰC THỨ BẢY

 

Tám Sự Tích Phật Lực

Tỳ khưu Hộ Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)

Phật lịch 2545 (TL 2001)

---o0o---

SỰ TÍCH PHẬT LỰC THỨ BẢY

ĐỨC PHẬT CHO PHÉP ĐẠI ĐỨC MAHÀMOGGALLÀNA
THU PHỤC RỒNG CHÚA NANDOPANANDA

-ooOoo-

Đức Phật cho phép Đại đức Mahàmoggallàna vận dụng thần thông để thu phục Rồng chúa Nandopananda, là Rồng tà kiến có nhiều thần thông.

(Phỏng theo Chú giải Theragàthà và Apàdàna, chuyện Đại đức Màhàmoggallàna)

Thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại Jetavana gần thành Sàvatthi. Phú hộ Anàthapindika, sau khi nghe xong thời pháp, rất hoan hỷ đảnh lễ Đức Thế Tôn bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, con kính thỉnh Đức Thế Tôn cùng Tăng chúng 500 vị Tỳ khưu ngự đến thọ thực tại tư gia của chúng con vào ngày mai.

Đức Phật làm thinh nhận lời thỉnh mời của ông, biết Đức Phật đã nhận lời, tâm ông phú hộ vô cùng hoan hỷ đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi xin phép trở về.

Vào canh chót đêm ấy, như lệ thường, Đức Phật nhập đại bi định, khi xả định quán xét thế gian xem chúng sinh nào hữu duyên nên tế độ. Ngài nhìn thấy Rồng chúa Nandopananda hiện ra trong mạng lưới đại bi tế độ của Ngài. Đức Phật quán xét thấy Rồng chúa là Rồng tà kiến, không có đức tin nơi Tam bảo, rất hung dữ có nhiều thần thông. Nhưng cuối cùng, nó sẽ có đức tin rồi quy y Tam bảo. Vậy, ai là người có khả năng thu phục được Rồng chúa này? Ngài biết rằng Đại đức Mahàmoggallàna có năng lực thu phục được Rồng chúa này.

Sáng hôm ấy, Đức Phật gọi Đại đức Ànanda dạy:

- Này Ànanda, con hãy thông báo cho 500 vị Tỳ khưu cùng đi theo Như Lai lên cõi Tam thập tam thiên.

Cũng vào sáng hôm ấy, tại cung điện Long vương có tổ chức yến tiệc linh đình, Rồng chúa Nandopananda ngự trên ngai có lọng trắng che, bá quan văn võ áo mũ chỉnh tề ngồi theo thứ bậc, cùng hoàng tộc nhà Rồng đang say mê xem những vũ khúc kỳ diệu của các long nữ, và cùng nhau thưởng thức những món ngon vật lạ đặc biệt chốn long cung.

Ngay lúc ấy, Đức Phật cùng với 500 vị Tỳ khưu Tăng đang bay qua khoảng không gian phía trên địa phận cung điện của Rồng chúa, cố ý làm rơi bụi xuống đầu, cốt để cho chúng Rồng nhìn thấy như chọc tức, như khiêu khích, cho nên Rồng chúa Nandopananda nổi cơn thịnh nộ, tuyên bố với bọn bầy tôi thuộc hạ: "Bọn Sa môn đầu trọc này lên cõi Tam thập tam thiên, dám bay ngang qua cung điện của ta, ta sẽ làm cho họ phải kính nể, để về sau không dám bay ngang qua đây nữa". Rồng chúa tức giận đi đến chân núi Sineru dùng phép thuật hoá thân hình to lớn và dài bao vòng quanh, cuộn tròn cả ngọn núi, chồng lên nhau bảy vòng, rồi phồng mang che phủ luôn cả đỉnh núi, bao trùm cả cõi Tam thập tam thiên. Thế là từ xa chẳng ai còn nhìn thấy cõi trời đâu nữa.

Khi ấy, Đại đức Ratthapàla bạch với Đức Thế Tôn rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, trước kia mỗi lần lên ngang đây, con đều nhìn thấy, không những núi Sineru mà còn nhìn thấy cõi Tam thập tam thiên, nhìn thấy cả cung điện Vejayantapasàda của Đức vua trời Sakka cùng lá cờ trên đỉnh cung điện ấy, nhưng bây giờ con chẳng nhìn thấy được gì cả.

Kính bạch Đức Thế Tôn, do nhân duyên nào vậy, Bạch Ngài.

Đức Phật dạy rằng:

- Này Ratthapàla, Rồng chúa Nandopananda tức giận các con, nên đã hoá thân hình to lớn và dài, bao quanh núi Sineru chồng lên bảy vòng, rồi phồng mang che phủ luôn cả đỉnh núi, bao trùm cả cõi Tam thập tam thiên, cho nên con không nhìn thấy được gì nữa.

Đại đức Ratthapàla bạch với Đức Thế Tôn:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, kính xin Đức Thế Tôn cho phép con được dạy Rồng chúa bớt tánh kiêu căng ngã mạn ấy.

Đức Phật không cho phép, rồi lần lượt Đại đức Bhaddiya, Đại đức Ràhula... vị nào cũng muốn trừng phạt Rồng chúa ấy, nhưng Đức Phật đều không cho phép, cuối cùng Đại đức Mahàmoggallàna bạch Đức Thế Tôn:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, kính xin Đức Thế Tôn cho phép con được thu phục Rồng chúa Nandopa-nanda ấy.

Đức Phật chấp nhận cho phép Đại đức Mahà-monggallàna vận dùng thần thông biến hoá thành con Rồng có thân hình to lớn và dài hơn Rồng chúa Nandopananda, bao quanh thân hình Rồng chúa, chồng lên nhau 14 vòng, siết chặt lấy thân hình của nó, phồng mang lớn đè lên mang của nó, Đại đức Mahàmonggallàna càng siết vào, thân mình Rồng chúa càng đau đớn chịu không nổi.

Rồng chúa tức giận hoá ra luồng khí độc phun ra để làm hại Ngài Đại đức Mahàmonggallàna, nhưng không hại được Ngài, ngược lại Ngài Đại đức cũng hoá ra luồng khói mạnh hơn làm cho Rồng chúa vô cùng khó chịu.

Rồng chúa càng tức giận hoá ra luồng lửa phun ra để thiêu đốt Ngài, Ngài Đại đức cũng hoá ra luồng lửa mạnh hơn làm cho thân hình Rồng chúa nóng như thiêu như đốt.

Thế là một phần thân thể bị siết chặt, đau đớn, một phần thì bị khói và lửa thiêu đốt không sao chịu nổi được nữa.

Rồng chúa muốn biết vị Sa môn này là ai, bèn hỏi rằng:

- Ngươi là ai? Sao dám làm khổ ta đến như vậy?

Đại đức Mahàmoggalàna trả lời:

- Này Nandopananda, bần đạo là Mahàmoggalàna đây!

Rồng chúa yêu cầu Ngài Đại đức rằng: Bạch Đại đức, xin Ngài hiện trở lại hình tướng vị Tỳ khưu.

Đại đức Mahàmoggallàna biết mưu mô xảo quyệt của Rồng chúa muốn hại Ngài, cho nên Ngài vừa hiện ra, liền đi thẳng vào lỗ tai bên phải, đi sang lỗ tai bên trái, rồi từ lỗ tai bên trái đi sang lỗ tai bên phải của Rồng chúa. Rồng chúa đau đớn khó chịu, nhanh như chớp, Ngài lại đi vào từ lỗ mũi bên phải đi sang lỗ mũi bên trái, rồi từ lỗ mũi bên trái đi sang lỗ mũi bên phải của Rồng chúa.

Rồng chúa càng đau đớn, càng khó chịu gấp bội phần, dường như không còn chịu đựng được nữa, nó van xin Ngài Đại đức tha lỗi cho nó; nhưng thật tâm của nó chưa chịu khuất phục, đây chỉ là một mưu kế chờ có cơ hội là hại Ngài, ngay tức khắc. Ngài Đại đức biết rõ ác tâm của nó, cho nên Ngài vừa thoát ra khỏi lỗ mũi, khi Rồng chúa vừa mở miệng, Ngài lại nhanh như chớp đi thẳng vào miệng của Rồng chúa mà nó không hề hay biết, Ngài đi thẳng vào bụng của nó, mở đường đi kinh hành từ hướng Đông sang hướng Tây, rồi đi ngược lại, và từ hướng Nam sang hướng Bắc, rồi đi ngược lại làm cho Rồng chúa đau đớn và khó chịu vô cùng.

Đức Thế Tôn nhìn thấy như vậy, nhắc nhở Đại đức Mahàmoggallàna.

- Này Moggallànà, con nên thận trọng, Rồng chúa có nhiều phép mầu lợi hại và ác tâm, vậy con hãy cẩn thận kẻo nguy hiểm.

Đại đức Mahàmoggallàna bạch với Đức Thế Tôn:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, con đã luyện Iddhipàla (tứ thần túc) đến chỗ thuần thục, vận dụng như ý. Còn ý nghĩ độc ác của Rồng chúa thì con biết rõ.

Kính bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài đừng bận tâm lo cho con. Dầu có hàng trăm, hàng ngàn Rồng chúa như Nandopananda thì con cũng có khả năng thu phục được dễ dàng, huống hồ gì chỉ có một con. Bạch Ngài.

Rồng chúa Nandopananda nghĩ rằng: "Lúc đầu vị Sa môn này đi vào miệng mà ta chẳng hề hay biết, bây giờ ta chờ y ra, ta sẽ cắn răng, nhai nuốt y vào bụng mới hả cơn tức giận này".

Rồng chúa bạch Ngài Đại đức:

- Kính bạch Đại đức, tôi xin chịu khuất phục Ngài rồi, kính thỉnh Ngài từ bi ra ngoài, Ngài đi qua, đi lại trong bụng của tôi, làm cho tôi đau đớn khó chịu quá!

Ngay lúc ấy, Đại đức Màhàmoggallàna đi ra khỏi miệng, mà Rồng chúa Nandopannanda không hề hay biết gì cả. Ngài hiện ra đứng trước mặt, vừa nhìn thấy Ngài Đại đức Rồng chúa bằng giọng căm tức nói:

- Chính Sa môn này đây à!

Nhanh như chớp, từ hai lỗ mũi, Rồng chúa phun ra hai luồng khí độc như vũ bão cực kỳ nguy hiểm để giết hại Ngài Đại đức; ngay tức khắc, Ngài Đại đức liền nhập đệ tứ thiền hữu sắc, nên luồng khí độc của Rồng chúa không thể làm cho đầu sợi lông chân của Ngài lay động.

Thấy vậy, Rồng chúa Nandopananda vô cùng kinh ngạc, nghĩ rằng vị Sa môn này có thần thông thật là phi thường.

Lúc ấy, Đại đức Mahàmoggallàna hoá ra điểu vương Garuda, to lớn phát ra một luồng khói mạnh, phóng thẳng đến Rồng chúa, làm cho thân hình của nó quằn quại lảo đảo một cách khốn khổ. Rồng chúa tự biết mình không thể chịu đựng nổi oai lực của Ngài Đại đức nên đành chịu khuất phục trước uy lực và đức độ của Ngài.

Rồng chúa hoá ra một cậu bé chấp tay đảnh lễ Đại đức rồi bạch rằng:

- Kính bạch Ngài Đại đức, con đem hết lòng thành kính xin nương nhờ nơi Ngài, rồi y cúi đầu đảnh lễ dưới chân của Ngài Đại đức một cách thành kính bằng tâm phục thiện.

Như vậy, Đại đức Mahàmoggallàna đã thu phục được Rồng chúa Nandopananda cải ác tùng thiện, cải tà quy chánh, Ngài Đại đức bảo Rồng chúa rằng:

- Này Nandopananda, có Đức Thế Tôn đang ngự ở kia, con hãy đi theo thầy đến hầu đảnh lễ Ngài.

Rồng chúa Nandopananda ngoan ngoãn vâng lời thầy đi theo sau đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn:

Con đem hết lòng thành kính xin qui y Phật.

Con đem hết lòng thành kính xin qui y Pháp.

Con đem hết lòng thành kính xin qui y Tăng.

Con đem hết lòng thành kính xin qui y Phật, lần thứ nhì.

Con đem hết lòng thành kính xin qui y Pháp, lần thứ nhì.

Con đem hết lòng thành kính xin qui y Tăng, lần thứ nhì.

Con đem hết lòng thành kính xin qui y Phật, lần thứ ba.

Con đem hết lòng thành kính xin qui y Pháp, lần thứ ba.

Con đem hết lòng thành kính xin qui y Tăng, lần thứ ba, kể từ nay cho đến trọn đời.

Đức Thế Tôn truyền dạy rằng: "Này Rồng chúa Nandopananda, cầu chúc cho con được sự an lạc lâu dài".

Rồng chúa Nandopananda có duyên lành đã quy y Tam bảo trở thành Rồng chúa có chánh kiến, có đức tin trong sạch nơi Tam bảo.

Sáng hôm ấy, công việc hoá độ Rồng chúa Nandopananda đã hoàn thành, Đức Phật cùng 500 vị Tỳ khưu Tăng vân hành trở lại kinh thành Sàvatthi ngự đến tư thất phú hộ Anàthapindika để thọ thực cũng vừa đúng ngọ.

Vị trưởng giả đại thí chủ hoan hỷ đón rước Đức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng xong bèn bạch với Đức Thế Tôn rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, do vì nhân duyên nào mà Đức Thế Tôn cùng chư Tỳ khưu Tăng ngự đến trễ như thế này?

- Này Anàthapindika, sáng nay Như Lai cùng chư Tỳ khưu Tăng trên đường đến Tam thập tam thiên, ngang qua cung điện của Rồng chúa Nandopananda, Như Lai đã cho phép Moggallàna dùng thần thông để thu phục Rồng chúa có tà kiến, nhiều thần thông ấy.

- Kính bạch Đức Thế Tôn kết quả như thế nào? Bạch Ngài?

- Này Anàthapindika, Moggallàna đã thu phục được Rồng chúa Nandopananda, nó đã cải ác tùng thiện, cải tà quy chánh, trở thành Rồng chúa có chánh kiến, có đức tin trong sạch và đã quy y Tam bảo.

Nghe vậy, vị đại phú hộ vô cùng hoan hỷ bạch với Đức Thế Tôn rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, thật là hạnh phúc biết dường nào! Vậy, con kính thỉnh Đức Phật cùng 500 vị Đại đức Tăng ngự đến thọ thực nhà con suốt 7 ngày, để mừng Ngài Đại đức Mahàmoggallàna đã thâu phục được Rồng chúa Nandopananda có đức tin quy y Tam bảo.



---o0o---
Trình bày:Nhị Tường


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4651)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43777)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4381)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4325)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4232)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6350)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4616)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4028)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 24933)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24004)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]