Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

3. SỰ TÍCH PHẬT LỰC THỨ BA

30/05/201318:30(Xem: 6628)
3. SỰ TÍCH PHẬT LỰC THỨ BA

 

Tám Sự Tích Phật Lực

Tỳ khưu Hộ Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)

Phật lịch 2545 (TL 2001)

---o0o---

SỰ TÍCH PHẬT LỰC THỨ BA

ĐỨC PHẬT CẢM THẮNG VOI NÀLÀGIRI

-ooOoo-

Đức Phật cảm thắng được voi Nàlàgiri, do nhờ tâm từ.

(Bộ Chú giải Jàtaka..., bộ Vinayapitaka...)

Hoàng tử Devadatta là hoàng huynh của Công chúa Yasodharà, cả hai là con của Đức vua Suppabuddha dòng Sakya, (cậu ruột của Thái tử Siddhattha) và Hoàng hậu Amittà (cô ruột của thái tử Siddhattha). Như vậy Hoàng tử Devadatta vừa là anh em cô cậu, vừa là anh vợ của Thái tử Siddhattha.

Thái tử Siddhattha đi xuất gia, trở thành bậc Chánh Đẳng Giác, một thời gian sau, Ngài ngự trở về kinh thành Kapilavatthu để tế độ phụ vương Suddhodana cùng hoàng tộc Sakya. Đức vua Suddhodana động viên, khuyến khích các Hoàng tử dòng Sakya đi xuất gia theo Đức Phật, cùng một lúc có 1.000 Hoàng tử xuất gia trở thành Tỳ khưu và đều chứng đắc thành bậc Thánh Arahán. Sau đó Hoàng tử Devadatta cũng đi xuất gia trở thành Tỳ khưu cùng với năm Hoàng tử khác là: Hoàng tử Bhaddiya, Anuruddha, Ànanda, Bhagu và Hoàng tử Kimila. Sau khi trở thành Tỳ khưu các Ngài Đại Đức Bhaddiya, Đại Đức Anuruddha, Đại Đức Bhagu và Đại Đức Kimila đều chứng đắc thành bậc Thánh Arahán trong thời kỳ Đức Phật còn tại thế; còn Đại Đức Ànanda chỉ chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, về sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn khoảng ba tháng bốn ngày sau mới chứng đắc thành bậc thánh Arahán. Riêng Tỳ khưu Devadatta chỉ chứng đắc bát thiền thế gian (4 bậc thiền hữu sắc và 4 bậc thiền vô sắc) và đắc thần thông, vẫn còn là phàm nhân, không phải là bậc Thánh nhân.

Một thuở nọ, Đức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng đang ngự tại xứ Kosambì, các nhà phú hộ, vua chúa phát sanh đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, hàng ngày đem nhiều lễ vật đến cúng dường Đức Phật cùng chư Đại Đức Sàriputta, Đại Đức Moggallànà, Đại Đức Mahàkassapa, Đại Đức Bhaddiya, Đại Đức Anuruddha, Đại đức Ànanda..., còn Tỳ khưu Devadatta ít ai hỏi đến và cũng ít ai dâng cúng đặc biệt gì cả.

Thế là Tỳ khưu Devadatta cảm thấy tự ái: "vốn ta cũng là Hoàng tử xuất thân từ dòng Sakya đi xuất gia trở thành Tỳ khưu, sao ít ai dâng cúng đến ta, ta không có nhiều lợi lộc". Rồi lại nghĩ: "Bằng cách nào để cho ta có quyền thế và có nhiều lợi lộc, ta không thể nào làm thân với Đức vua , các nhà phú hộ, vì những vị này có đức tin trong sạch nơi Đức Phật và các bậc Thánh nhân. Ta không dễ gì làm cho quý vị ấy tin ở ta được. Đức vua Bimbisàra có thái tử Ajàtasattu còn nhỏ dại, chưa phân biệt rõ thiện - bất thiện, phước - tội... ta có thể thuyết phục Thái tử tin theo ta được".

Nghĩ xong, từ Kosambi Tỳ khưu Devadatta đi đến kinh thành Ràjagaha dùng thần thông hoá ra một đứa trẻ; từ hai tay, hai chân, cổ và đầu mỗi nơi hóa ra một con rắn, có sáu con rắn, mỗi con quấn vào người, bay lên hư không, đáp xuống ngồi trọn vào vế của thái tử Ajàtasattu.

Ajàtasattu sợ hãi hỏi: Ngươi là ai?

- Thưa Thái tử, tôi là Tỳ khưu Devadatta - Tỳ khưu Devadatta thưa.

- Xin Ngài hóa trở lại con người thật đi! - Thái tử yêu cầu.

Tỳ khưu Devadatta hoá trở lại là Tỳ khưu mặc y mang bát đứng trước mặt Thái tử.

Thái tử vô cùng cảm phục phép thần thông của Tỳ khưu Devadatta, phát sanh đức tin nơi Tỳ khưu Devadatta, cho nên mỗi ngày sai lính đem 500 cỗ xe chở cơm và thức ăn đến dâng cúng.

Lợi lộc làm cho tâm tham của Tỳ khưu Devadatta càng thêm đen tối, nên tham vọng ngông cuồng phát sanh: "Ta nên làm một vị Phật, cai quản nhóm Tỳ khưu Tăng".

Do nghĩ sai lầm như vậy, nên các bậc thiền và phép thần thông của Tỳ khưu Devadatta bị hư mất ngay.

Sau đó, Đức Phật từ xứ Kosambi cùng chư Tỳ khưu Tăng du hành đến kinh thành Ràjagaha, ngự tại chùa Veluvana. Khi ấy chư Tỳ khưu đến bạch với Đức Phật về việc Tỳ khưu Devadatta đến thân cận với thái tử Ajàtasattu, mỗi ngày Thái tử sai lính đem 500 cỗ xe chở 500 nồi cơm và đồ ăn đến cúng dường Tỳ khưu Devadatta.

Đức Phật dạy:

- Này chư Tỳ khưu, danh và lợi phát sanh đối với Devadatta để tự hại mình, tự giết mình.

Này chư Tỳ khưu, cũng ví như:

Cây chuối trổ buồng ra trái chín, tự hại mình.

Cây tre trổ cờ ra hột, tự hại mình

Cây sậy trổ cờ, tự hại mình.

Ngựa Assatara có thai đúng tháng ngày sanh, hại ngựa mẹ.

Cũng như vậy, danh và lợi đối với Devadatta để tự hại mình, tự giết mình.

LẦN ĐẦU TIÊN TỲ KHƯU DEVADATTA OAN TRÁI VỚI ĐỨC PHẬT

Một hôm, Đức Phật thuyết pháp giữa số đông các hàng Phật tử, chư Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, Đức vua, phú hộ, dân chúng,... có Tỳ khưu Devadatta ngồi trong nhóm chư Tỳ khưu Tăng, Devadatta quỳ chấp tay bạch Đức Thế Tôn rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, bây giờ Ngài đã già rồi, lớn tuổi, quá thời lão niên.

Kính bạch Đức Thế Tôn, kính thỉnh Ngài nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già, giao cho con lo việc cai quản chư Tỳ khưu Tăng, con lãnh đạo chư Tỳ khưu Tăng.

Đức Phật nghe Devadatta bạch như vậy bèn dạy rằng:

- Này Devadatta, chẳng nên vậy đâu! Con chớ nên có tham vọng lãnh đạo chư Tỳ khưu Tăng.

Tỳ khưu Devadatta bạch lần thứ nhì và lần thứ ba cũng như vậy, và cả ba lần Đức Phật đều không chấp thuận. Ngài dạy:

- Này Devadatta, đối với Sàriputta và Moggallàna mà Như Lai cũng không trao quyền lãnh đạo chư Tỳ khưu Tăng, huống hồ đối với con, là người tham đắm trong lợi lộc thấp hèn, như dùng đồ nước miếng, làm sao Như Lai trao quyền hành cho con được.

Tỳ khưu Devadatta nghe Đức Phật ca tụng Đại Đức Sàriputta và Đại Đức Moggallàna, còn chê trách mình dùng vật dụng phát sanh không trong sạch, như đồ nước miếng, giữa các hàng Phật tử, nên tức giận đảnh lễ Đức Phật bỏ đi ra.

Tỳ khưu Devadatta đến gặp thái tử Ajàtasattu, khuyến dụ thái tử nên giết vua cha lên ngôi vua, còn y sẽ giết Đức Phật rồi thay thế Phật.

Thái tử Ajàtasattu mang con dao lén vào phòng chờ giết vua cha, bị bại lộ, các quan bắt quả tang dẫn đến trình Đức vua Bimbisàra phán xét.

Đức vua tra hỏi thái tử:

- Này hoàng nhi, tại sao con có ý định giết cha?

- "Tâu phụ vương, con muốn lên ngôi làm vua." -Thái tử tâu.

Đức vua dạy rằng:

- Này hoàng nhi, con muốn lên ngôi thì cha truyền ngôi vua lại cho con.

Đức vua Bimbisàra truyền ngôi, làm lễ đăng quang thái tử Ajàtasattu lên ngôi vua ở kinh thành Ràjagaha trị vì xứ Magadha.

Thái tử Ajàtasattu được lên ngôi vua, tâm vô cùng hoan hỷ báo tin mừng cho Tỳ khưu Devadatta, Tỳ khưu Devadatta ác tâm bày kế giết Đức vua Bimbisàra để trừ hậu họa giành lại ngôi báu.

Đức vua Ajàtasattu bắt vua cha giam trong nhà tù, lệnh cấm đem vật thực nuôi dưỡng và cấm không được ai đến thăm viếng ngoại trừ mẫu hậu, về sau cũng cấm luôn mẫu hậu.

Thái thượng hoàng Bimbisàra không có vật thực nuôi dưỡng thân thể, nhưng nhờ nhập Thánh quả định Nhập Lưu và đi kinh hành nên vẫn kéo dài sự sống còn. Vua Ajàtasattu biết vậy, cho người thợ cạo đem dao rạch bàn chân [*] xoa dầu, xát muối, hơ lửa không còn đi được nữa, về sau không lâu, đức Thái thượng hoàng băng hà tái sanh làm thiên nam ở cõi Tứ đại thiên vương tên là Janavasabha.

[*] Tiền kiếp của Đức vua Bimbisàra đã từng mang dép đi lên xung quanh bảo tháp hoặc quanh cội Bồ Đề..., nên kiếp này phải chịu quả bị rạch 2 bàn chân.

Thái thượng hoàng Bimbisàra băng hà cùng ngày với Hoàng tử Udayabhadda con của Đức vua Ajàtasattu hạ sanh.

Các quan trước tiên tâu Đức vua rằng:

- Tâu bệ hạ, Hoàng hậu đã hạ sanh Hoàng tử.

Đức vua nghe các quan tâu như vậy, tình thương con dạt dào trổi lên nghĩ rằng: "khi ta sanh ra đời, chắc chắn phụ hoàng ta cũng thương ta như vậy".

Đức vua liền ra lệnh:

- Các quan hãy đi mau, thả phụ hoàng ta ra!

Nhưng hỡi ôi! còn người đâu mà thả ra được nữa!

Các quan tiếp theo tâu rằng: Thái thượng hoàng đã băng hà hôm nay rồi!

Đức vua Ajàtasattu vô cùng hối tiếc đi tìm mẫu hậu, nghe mẫu hậu thuật lại, biết rõ tình thương con của phụ hoàng vô hạn, Đức vua khóc than thảm thiết, tổ chức làm lễ táng phụ hoàng rất trọng thể.

Đức vua Ajàtasattu nghe lời Tỳ khưu Devadatta phạm trọng tội giết cha thuộc ngũ vô gián nghiệp.

TỲ KHƯU DEVADATTA ÂM MƯU GIẾT ĐỨC PHẬT

Một hôm Tỳ khưu Devadatta tìm đến vua Ajàtasattu và yêu cầu Đức vua tuyển chọn một số tay thiện xạ về cung nỏ để giết Đức Phật. Đức vua chấp thuận, truyền lệnh gọi quân lính đến bảo rằng: Các ngươi hãy chấp hành theo lệnh của Ngài Devadatta.

Devadatta bí mật chia thành năm nhóm, mỗi nhóm hoàn toàn không biết nhau, chỉ tuân hành theo lệnh của y, nhóm thứ nhất một xạ thủ, Tỳ khưu Devadatta ra lệnh rằng:

- "Ngươi hãy đến giết Sa môn Gotama ở chỗ này, sau khi giết Sa môn Gotama xong, đi theo con đường này trở về lãnh thưởng".

Nhóm thứ nhì có 2 xạ thủ, Tỳ khưu Devadatta ra lệnh:

- "Hai ngươi hãy giết người từ con đường này trở lại, rồi đi theo con đường này trở về lãnh thưởng".

Nhóm thứ ba có 4 xạ thủ, Tỳ khưu Devadatta ra lệnh:

- "Các ngươi hãy giết hai người từ con đường này trở lại, rồi đi theo con đường này trở về lãnh thưởng".

Nhóm thứ tư có 8 xạ thủ, Tỳ khưu Devadatta ra lệnh:

- "Các ngươi hãy giết bốn người từ con đường này trở lại, rồi đi theo con đường này trở về lãnh thưởng".

Nhóm thứ năm có 16 xạ thủ, Tỳ khưu Devadatta ra lệnh:

- "Các ngươi hãy giết tám người từ con đường này trở lại, rồi đi theo con đường này trở về lãnh thưởng".

THI HÀNH LỆNH TỲ KHƯU DEVADATTA

Nhóm thứ nhất, một xạ thủ, mang cung nỏ đến chỗ mà Tỳ khưu Devadatta đã chỉ định, nhìn thấy Đức Phật, khi đến gần phát sanh tâm run sợ đến nỗi cứng đơ người, không cử động được. Đức Phật bèn gọi:

- Này con, con đừng sợ, hãy lại đây với Như Lai.

Người xạ thủ lắng nghe giọng nói dịu dàng, ngọt ngào phát ra từ tâm đại bi của Đức Phật, tâm trở lại bình tĩnh an lạc, thân cử động được, ném bỏ cung nỏ, cung kính đến hầu đảnh lễ dưới chân Ngài, quỳ xin tạ tội. Đức Phật tha tội rồi thuyết pháp tế độ, người xạthủ lắng nghe pháp, rồi thực hành theo lời giáo huấn của Ngài, liền chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, xin quy y nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng. Đức Phật chấp thuận cho Quy y theo Siêu tam giới (lokuttarasarana), rồi Ngài dạy rằng:

- Con chớ nên trở về theo con đường do Tỳ khưu Devadatta chỉ dẫn, mà con nên đi theo con đường này sẽ được an toàn tánh mạng.

Nhóm thứ nhì có hai xạ thủ mai phục trên con đường chờ xạ thủ thứ nhất trở lại, chờ lâu không thấy, lần theo con đường ấy thì nhìn thấy Đức Phật ngồi một mình, hai người xạ thủ liền bỏ cung nỏ đến hầu đảnh lễ Ngài, ngồi nghe pháp rồi thực hành theo lời giáo huấn của Ngài, liền chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả trở thành bậc Thánh Nhập Lưu rồi xin quy y nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, Đức Phật chấp thuận cho quy y theo Siêu tam giới, rồi Đức Phật chỉ dạy:

- Các con chớ nên trở về theo con đường do Tỳ khưu Devadatta chỉ dẫn, mà nên đi theo con đường này sẽ được an toàn tánh mạng. Nhóm thứ ba có 4 xạ thủ, nhóm thứ tư có 8 xạ thủ, nhóm thứ năm có 16 xạ thủ, mỗi nhóm chờ lâu không thấy, đi lần theo con đường ấy thì nhìn thấy Đức Phật ngồi một mình, họ bỏ cung nỏ đến hầu đảnh lễ Ngài, ngồi nghe pháp rồi thực hành theo lời giáo huấn của Ngài, liền chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả trở thành bậc Thánh Nhập Lưu rồi xin quy y nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, Đức Phật chấp thuận cho Quy y theo Siêu tam giới.

Người xạ thủ thứ nhất trở về vào trình với Tỳ khưu Devadatta:

- Con không thể giết Đức Phật được, Ngài là bậc đại oai lực, khi con nhìn thấy đã phát run sợ đến nỗi đứng đơ người không cử động được. Nhờ tâm đại bi của Đức Phật gọi con đến, con mới hoàn hồn tỉnh lại, thân mới cử động được....

Tỳ khưu Devadatta nghe trình như vậy, la hét:

- Thôi thế là đủ! Ngươi giết Sa môn Gotama không được, vậy tự tay ta giết.

TỲ KHƯU DEVADATTA CỐ GIẾT ĐỨC PHẬT

Sau lần âm mưu ra lệnh cho các xạ thủ giết chết Đức Phật không thành, Tỳ khưu Devadatta rất căm tức muốn tự mình giết Đức Phật. Một hôm, Đức Thế Tôn đang đi kinh hành dưới chân núi Gijjhakùta, Tỳ khưu Devadatta nghĩ đây là cơ hội tốt nhất để giết Đức Phật, ông liền mò leo lên đỉnh núi, quan sát đường lăn tảng đá xuống, rồi dùng cây làm đòn bẩy bật một tảng đá lớn lăn xuống chỗ Đức Phật đang đi kinh hành với tác ý ác tâm giết Đức Phật. Tảng đá lớn lăn nhanh xuống. Thật phi thường thay! Có hai tảng đá lớn hơn gấp bội đồng nghiêng đầu chụm lại, ngăn chặn tảng đá kia làm vỡ ra một mảnh nhỏ văng trúng nhằm bàn chân của Đức Phật làm cho bàn chân Ngài bầm máu và sưng lên.

Đức Phật quở trách Tỳ khưu Devadatta:

- Này Devadatta, con người vô dụng! Con có ác tâm muốn giết Như Lai, nhưng mà đối với Như Lai chỉ bị bầm máu mà thôi, như vậy, con đã tạo ác trọng nghiệp lớn rồi!

Đức Phật gọi chư Tỳ khưu dạy rằng:

- Này chư Tỳ khưu, Devadatta đã phạm tội, có ác tâm muốn giết Như Lai, nhưng mà không thể giết Như Lai được, chỉ làm bầm máu ở bàn chân của Như Lai. Như vậy, lần đầu tiên Tỳ khưu Devadatta đã phạm trọng tội lớn là làm bầm máu bàn chân (lohituppàdaka) của Như Lai thuộc ngũ vô gián nghiệp.

Vết thương của Đức Phật, nhờ vị lương y Jìvaka tận tâm cứu chữa, mổ xẻ lấy máu bầm ra và thoa thuốc nên không bao lâu, bàn chân của Ngài đã bình phục.

Chư Tỳ khưu được biết Tỳ khưu Devadatta có ác tâm muốn giết Đức Thế Tôn, vì vậy, chư Tỳ khưu chia từng nhóm canh gác bảo vệ Đức Phật, có nhóm học kinh, tụng kinh; có nhóm đi kinh hành chung quanh Gandhakuti nơi Đức Phật đang ngự. Đức Thế Tôn nghe tiếng tụng kinh bèn hỏi Đại Đức Ànanda, Đại Đức Ànanda bạch với Đức Thế Tôn là chư Tỳ khưu chia thành từng nhóm canh gác, bảo vệ Đức Thế Tôn, không để Tỳ khưu Devadatta đến làm hại Ngài.

Đức Phật bèn dạy Đại Đức Ànanda gọi chư Tỳ khưu mà dạy rằng:

"Atthànametam Bhikkhave anavakàso, yam parùpakkamena Tathàgatam jìvità voropeyya.

Anupakkamena Bhikkhave Tathàgatà parinibbàyanti...".

"Này chư Tỳ khưu, điều chẳng bao giờ xảy ra là việc giết hại Đức Phật do sự cố gắng của người khác. Này chư Tỳ khưu, chư Phật tịch diệt Niết Bàn hoàn toàn không phải do sự cố gắng của một ai cả. Này chư Tỳ khưu, các con nên trở về chỗ ở của mình. Không một ai có thể làm hại được Như Lai. Các con chớ bận tâm bảo vệ sanh mạng của Như Lai..." (Vinayapitaka, Cùlavagga).

CẢM THẮNG VOI NÀLÀGIRI

Đức Thế Tôn đã bình phục như thường, một hôm Ngài cùng chư Tăng đi vào thành Ràjagaha để khất thực. Tỳ khưu Devadatta chăm chú nhìn Đức Phật có đầy đủ tướng tốt và vẻ đẹp trang nghiêm, nghĩ rằng: "Phần đông người ta nhìn thấy Sa môn Gotama như vậy, thì phát sanh đức tin trong sạch và lòng tôn kính, lại còn có Phật lực phi thường, cho nên không một người nào có đủ can đảm đến gần để giết hại Sa môn Gotama được. Họa may chỉ có loài súc sanh không biết gì về Ân Đức Phật mới có thể hại Sa môn Gotama được mà thôi. Vậy ta nên dùng voi Nàlàgiri hung dữ của Đức vua Ajàtasattu kia để giết hại Sa môn Gotama".

Tỳ khưu Devadatta đến gặp vua Ajàtasattu trình tâu âm mưu dùng voi Nàlàgiri hung dữ để sát hại Đức Phật, được Đức vua chấp thuận và truyền lệnh gọi quản tượng đến bảo rằng:

- Ngươi hãy nghe theo lệnh của thầy Devadatta, ngày mai cho voi Nàlàgiri uống rượu say rồi thả ra theo đường nào mà Sa môn Gotama đi vào thành để khất thực.

- Ngày thường, ngươi cho hung tượng Nàlàgiri uống bao nhiêu hũ rượu? - Tỳ khưu Devadatta hỏi.

- Tám hũ, thưa Ngài - Quản tượng thưa.

Tỳ khưu Devadatta ra lệnh:

- Vậy ngày mai, ngươi phải cho hung tượng Nàlàgiri uống 16 hũ rượu, say điên cuồng rồi thả ra theo con đường mà Sa môn Gotama đi vào thành để khất thực, để nó chạy thẳng đến giết chết Sa môn Gotama.

Quản tượng chỉ còn biết tuân lệnh mà thôi.

Vua Ajàtasattu truyền lệnh các quan trong kinh thành thông báo cho dân chúng trong thành biết. "Vào ngày mai, quản tượng sẽ thả voi Nàlàgiri hung dữ ra đường, vậy toàn thể dân chúng trong thành hãy làm xong công việc từ sáng sớm rồi trở về nhà đóng cửa ở trong nhà, cấm không được ai đi lại ở ngoài đường".

Dân chúng trong thành biết tin Tỳ khưu Devadatta âm mưu dùng voi Nàlàgiri hung dữ để giết Đức Phật và đã được vua Ajàtasattu chấp thuận. Vì vậy, những người cận sự nam, cận sự nữ có đức tin trong sạch nơi Tam bảo dẫn nhau đến chùa Veluvana bạch với Đức Thế Tôn rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, sáng ngày mai, Tỳ khưu Devadatta âm mưu dùng voi Nàlàgiri hung dữ để giết hại Ngài, vua Ajàtasattu đã chấp thuận. Như vậy, sáng ngày mai, kính xin Đức Thế Tôn cùng chư Tỳ khưu Tăng không nên đi vào thành khất thực, kính xin Đức Thế Tôn cho phép chúng con được mang vật thực đến chùa để cúng dường Đức Thế Tôn cùng chư Tỳ khưu Tăng.

Đức Thế Tôn không chấp thuận hoàn toàn lời thỉnh cầu của dân chúng trong thành Ràjagaha, Ngài dạy rằng:

- Ngày mai, Như Lai sẽ cảm thắng voi Nàlàgiri, đồng thời cảm hoá được một số nhóm ngoại đạo. Vì vậy, Như Lai cùng chư Tỳ khưu Tăng đông đảo sẽ đi vào thành Ràjagaha. Sau khi cảm thắng voi Nàlàgiri xong, Như Lai cùng chư Tỳ khưu Tăng sẽ ra khỏi thành trở về chùa Veluvana, khi ấy các con đem vật thực đến chùa dâng cúng chư Tỳ khưu Tăng có Như Lai chủ trì.

Nhóm cận sự nam - nữ hiểu ý Đức Phật, đảnh lễ Ngài trở về với lòng tôn kính Đức Phật vô hạn.

Như thường ngày, ban đêm vào cuối canh, Đức Thế Tôn nhập đại bi định, xả định quán xét chúng sinh có duyên lành đặc biệt nên tế độ. Bằng Phật nhãn, Ngài nhìn thấy rõ trong lúc cảm thắng voi Nàlàgiri bằng tâm từ, đồng thời có 84.000 chúng sinh có duyên lành chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả tuỳ theo ba la mật của mình.

Vào sáng hôm ấy, Đức Phật gọi Đại Đức Ànanda dạy rằng:

- Này Ànanda, con nên thông báo cho tất cả chư Tỳ khưu ở 18 đại tự viện, sáng nay cùng đi với Như Lai vào thành Ràjagaha.

Sáng hôm ấy, trong thành Ràjagaha có số cận sự nam - nữ bảo nhau rằng: "Hôm nay chúng ta sẽ tận mặt nhìn thấy Đức Phật cảm thắng được voi hung ác Nàlàgiri một cách phi thường", nên họ leo lên tầng nhà cao hay mái nhà để quan sát cho rõ.

Còn một số dân chúng thuộc nhiều môn phái ngoại đạo, họ bảo nhau rằng: "Voi Nàlàgiri rất hung ác, có sức mạnh phi thường, không biết gì về Ân Đức Phật, hôm nay chúng ta được tận mắt nhìn thấy thân thể của Sa môn Gotama bị chà nát dưới bàn chân của voi hung ác Nàlàgiri...", nên họ cũng leo lên tầng nhà cao hay mái nhà để quan sát.

Khi ấy, nhóm quản tượng cho voi Nàlàgiri uống 16 hũ rượu theo lệnh của Tỳ khưu Devadatta. Voi Nàlàgiri sáng nay say như điên, được thả ra trên con đường ngược chiều với lộ trình của Đức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng đang đi vào thành Ràjàgaha. Voi Nàlàgiri nhìn thấy Đức Thế Tôn từ xa ngự đến liền cong vòi, quạt hai lỗ tai, cong đuôi chạy thẳng đến nơi Đức Thế Tôn ví như quả núi nghiêng đổ về phía Ngài.

Chư Tỳ khưu thấy vậy bèn bạch với Đức Thế Tôn:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, voi Nàlàgiri rất hung ác, sát nhân, đang say như điên chạy đến đây, chúng con kính thỉnh Đức Thế Tôn trở lại. Bạch Ngài.

Đức Thế Tôn dạy chư Tỳ khưu:

- Này chư Tỳ khưu, các con đừng có sợ hãi, không có một ai có thể làm hại Như Lai được, Như Lai sẽ cảm thắng voi Nàlàgiri này.

Lúc ấy, Đại Đức Sàriputta liền bạch Đức Thế Tôn rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, thông thường có việc gì xảy đến với phụ thân, phận sự ấy thuộc về đứa con trưởng. Kính bạch Đức Từ Phụ, cho phép con cảm hoá voi Nàlàgiri ấy.

Đức Thế Tôn bảo với Đại Đức Sàriputta rằng:

- Này Sàriputta con, oai lực của bậc Thánh Thanh Văn kém oai lực của Đức Phật, vậy con hãy để việc này cho Như Lai.

Sau đó, 80 vị Thánh Thanh Văn đại đệ tử tuần tự xin phép Đức Phật cảm hoá voi Nàlàgiri, nhưng Đức Thế Tôn không chấp thuận vị nào cả.

Lúc ấy, Đại Đức Ànanda không thể nào đứng yên nhìn sự nguy hiểm đến tánh mạng của Đức Phật, vì quá kính yêu Ngài, Đại Đức nghĩ rằng: Voi Nàlàgiri hung ác này hãy giết chết ta trước, ta quyết hy sinh tánh mạng thay cho Đức Phật, nên Đại Đức vội vàng bước ra đứng chắn trước mặt Đức Phật.

Đức Thế Tôn dạy bảo rằng:

- Này Ànanda, con hãy tránh sang nơi khác, không được đứng trước Như Lai.

Đại Đức Ànanda vẫn không chịu tránh, bèn bạch với Đức Thế Tôn rằng:

- Voi Nàlàgiri rất hung ác, nó giết chết con trước khi đụng đến Đức Thế Tôn.

Đức Thế Tôn bảo Đại Đức Ànanda tránh sang nơi khác đến ba lần như vậy mà Đại Đức vẫn đứng yên. Do vậy, Ngài phải dùng đến thần thông bắt buộc Đại Đức Ànanda tránh sang nơi khác, Đức Thế Tôn đứng trước chư Tỳ khưu Tăng.

Bỗng nhiên, có một người đàn bà đang ẵm con, nhìn thấy voi Nàlàgiri đang lao tới với tốc độ kinh khủng, bà quá đỗi khiếp đảm nên để đứa con mình xuống đường tìm nơi thoát thân, hung tượng Nàlàgiri đuổi theo người đàn bà, nhưng không thấy bèn trở lại đưá trẻ đang nằm gần Đức Phật, đứa bé thấy voi sợ quá khóc lớn, Đức Phật niệm rải tâm từ đến voi Nàlàgiri rồi gọi bằng một giọng phạm âm ngọt ngào trìu mến:

- Này Nàlàgiri con yêu quý, người ta cho con uống 16 hũ rượu mạnh làm cho con say điên cuồng, họ không cố ý giết hại người khác, thật ra họ cố ý nhờ con giết hại Như Lai, con hãy đến đây với Như Lai, Nàlàgiri yêu qúy!

Voi Nàlàgiri hung ác nghe giọng phạm âm ngọt ngào trìu mến của Đức Phật, liền mở mắt, ngẩng đầu, nhìn thấy kim thân Đức Phật toả ánh từ bi, cơn say điên cuồng tan biến mất, tâm thức tỉnh. Do nhờ oai lực của Đức Phật, voi Nàlàgiri hạ vòi xuống, ngoan ngoãn đi lần đến quỳ một cách cung kính dưới bàn chân Đức Phật.

Khi ấy, Đức Thế Tôn dạy voi Nàlàgiri rằng:

Này Nàlàgiri, con yêu quý,
Con là voi thuộc hàng súc sanh,
Như Lai là Đức Phật, gọi là voi chúa,
Kể từ nay con không nên hung ác sát nhân nữa.
Con nên có tâm từ đối với tất cả chúng sinh.

Đức Thế Tôn rải tâm từ đến voi Nàlàgiri, rồi đưa bàn tay phải vuốt trên đầu voi và khuyên dạy rằng:

"Này Nàlàgiri, con yêu quý,
Con là voi con có vòi,

Chớ nên hại voi chúa cao thượng là Như Lai.
Vì sự làm hại voi chúa cao thượng,
Là nhân đem lại sự đau khổ cho con,
Người nào làm hại voi chúa cao thượng,
Người ấy không được tái sanh cảnh giới an lạc.

Này Nàlàgiri con yêu quý,
Con chớ nên say mê, không nên dễ duôi nữa,
Vì sự dễ duôi quên mình, tạo nên ác nghiệp,
Phải sa vào cảnh ác đạo, chịu khổ lâu dài,
Con nên tạo thiện nghiệp, để được sự an lạc,
Được tái sanh thiện cảnh, hưởng an lạc lâu dài".

Đức Phật thuyết pháp tế độ voi Nàlàgiri, toàn thân tâm của voi Nàlàgiri phát sanh hỷ lạc chưa từng có. Nếu không phải là loài súc sanh, sau khi nghe pháp xong, chắc chắn nó đã chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả (nhưng vì là loài súc sanh nên không thể chứng đắc).

Dân chúng trong thành Ràjàgaha tận mắt nhìn thấy Đức Phật cảm thắng hung tượng Nàlàgiri trở nên hiền lành một cách phi thường, kỳ diệu như thế, cho nên họ vô cùng hoan hỷ vỗ tay reo hò vang dội, họ ném những đồ trang sức vòng vàng châu báu xuống thân mình voi Nàlàgiri thành đống. Từ đó, voi Nàlàgiri có tên là voi Dhanapàlaka (voi giữ gìn của cải). Đức Phật cho hiền tượng Dhanapàlaka thọ ngũ giới, hiền tượng nằm mọp xuống lấy vòi hút bụi ở bàn chân của Đức Phật, rồi phun lên đầu của mình tỏ lòng tôn kính Đức Phật.

Voi Dhanapàlaka đi lùi ra xa một đoạn đường, cúi đảnh lễ Đức Phật rồi trở về chỗ ở của mình; kể từ hôm ấy voi Dhanapàlaka rất hiền lành dễ mến. Đức Phật cảm thắng hung tượng Nàlàgiri rồi Ngài chú nguyện rằng: "của cải người chủ nào được hoàn lại cho người chủ ấy", tức thì tất cả của cải đều trở lại người chủ.

Sáng hôm ấy, Đức Phật đã cảm thắng được voi Nàlàgiri xong và nhân cơ hội này, Ngài thuyết pháp tế độ chúng sinh gồm có 84.000 chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả tùy theo ba la mật của mình, Đức Phật không đi vào thành Ràjàgaha để khất thực, mà Ngài dẫn đầu đoàn Tỳ khưu Tăng đông đảo ra khỏi thành ngự về chùa Veluvana.

Dân chúng kinh thành Ràjàgaha vui mừng, cùng nhau mang theo những vật thực ngon lành đến chùa Veluvana để cúng dường chư Tỳ khưu Tăng, có Đức Thế Tôn chủ trì với tâm vô cùng hoan hỷ và tôn kính. Họ được nhìn thấy Đức Phật đã cảm thắng hung tượng Nàlàgiri trở nên hiền tượng có ngũ giới, kể từ nay về sau voi Nàlàgiri không còn đáng kinh sợ nữa, mà trở nên đáng yêu quý hơn, cho nên họ cùng tán dương ca tụng Đức Phật bằng bài kệ:

"Người ta dạy voi hay ngựa,
Bằng móc sắt, bằng roi mây
Nhưng thật phi thường thay!
Đức Thế Tôn bậc đại bi,
Cảm hoá voi Nàlàgiri hung dữ,
Chẳng cần dùng đến móc sắt,
Và cũng không có roi mây!".

-ooOoo-

Chú thích:

* Giai đoạn cuối cuộc đời Tỳ khưu Devadatta

Tỳ khưu Devadatta bị mọi người chê trách thậm tệ về những hành động ác mà y đã tạo, cho nên vua Ajàtasattu không còn tin nơi y nữa, ngưng hộ độ 500 xe vật thực dâng cúng mỗi ngày, còn Tỳ khưu Devadatta đi khất thực, dân chúng không để bát nữa, những quyền lực và lợi lộc bị suy thoái hoàn toàn.

Cuối cuộc đời của Tỳ khưu Devadatta bị bệnh nặng, muốn đến hầu đảnh lễ Đức Phật sám hối trước khi chết. Devadatta nhờ những người học trò khiêng giường đến chùa Jetavana, nghỉ bên hồ nước gần chùa để tắm rửa cho y. Khi Tỳ khưu Devadatta từ trên giường vừa chạm đôi chân xuống đất, mặt đất nẻ ra rút y xuống. Khi còn lại hai bàn tay, y chấp tay đưa lên cao: "Xin quy y nương nhờ nơi Đức Phật" rồi chìm sâu trong lòng đất.

Tỳ khưu Devadatta sau khi chết, do năng lực của ác trọng nghiệp cho quả tái sanh vào đại địa ngục Avìci, chịu quả khổ do ác nghiệp mà y đã tạo; khi mãn ác nghiệp rồi, đến kiếp vị lai sau này được trở lại tái sanh làm người.

Đức Phật thọ ký rằng: từ kiếp trái đất này về sau, trải qua hơn một trăm ngàn đại kiếp trái đất nữa, kiếp vị lai của Tỳ khưu Devadatta sẽ chứng đắc thành Đức Phật Độc Giác có danh hiệu Atthissara.

* Cuộc đời Đức vua Ajàtasattu

Đức vua Ajàtasattu thân cận với Tỳ khưu Devadatta phạm phải trọng tội giết cha, khi Đức vua nghe tin Tỳ khưu Devadatta bị đất rút, nên phát sanh tâm sợ hãi kinh hồn; nhờ ngự y Jìvaka dẫn đến hầu Đức Phật xin sám hối tội lỗi của mình đã tạo. Đức Phật thuyết pháp tế độ Đức vua; nếu Đức vua không phạm trọng tội giết cha, thì khi nghe Đức Phật thuyết pháp xong, có thể chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu; nhưng vì đã phạm vô gián nghiệp chắc chắn phải sa vào địa ngục, cho nên Đức vua không thể chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả nào; Đức vua chỉ phát sanh đức tin trong sạch, xin quy nơi Tam bảo, trở thành người cận sự nam tận tâm lo hộ độ Tam bảo.

Sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn được 3 tháng 4 ngày chính Đức vua lo hộ độ chư Thánh Tăng trong kỳ kết tập Tam tạng lần thứ nhất tại động Sattapanni gần thành Ràjagaha gồm có 500 bậc Thánh Arahán, do Ngài Đại Đức Trưởng lão Mahàkassapa chủ trì. Mặc dầu phước thiện lớn lao như vậy, Đức vua cũng không tránh khỏi sa vào cảnh địa ngục. Đáng lẽ Đức vua sau khi chết, do năng lực của ác trọng nghiệp cho quả tái sanh vào đại địa ngục Avìci, song nhờ phước thiện ấy, nên chỉ tái sanh vào địa ngục Lohakumbhì suốt 60.000 năm, đến khi mãn ác nghiệp, được trở lại tái sanh làm người, kiếp vị lai sau này sẽ chứng đắc thành bậc Độc Giác Phật có danh hiệu Vijitàvì.




Trình bày:Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7495)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8406)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7172)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6080)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 6990)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5285)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3965)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8488)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 22893)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4606)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]