Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giã từ Tây Tạng

28/05/201319:32(Xem: 10783)
Giã từ Tây Tạng
Con Đường Mây Trắng


Giã Từ Tây Tạng

Nguyễn Tường Bách
Nguồn: Anagarika Govinda. Nguyễn Tường Bách dịch


Khoảng cuối tháng tư chúng tôi được tin đèo đã mở và con đường thương nhân đi lại được đào ra từ tuyết vốn bị phủ kín suốt mùa đông. Thời điểm của chia tay đã gần kề và khi chúng tôi lo thu xếp đồ đạc để chuẩn bị lên đường về hẳn Ấn Độ thì lạt ma Phiyang về lại tu viện của ông tại Tsaparang. Trước khi chia tay, ông muốn chúng tôi ngày nào đó phải đến lại Tây Tạng và lưu lại một thời gian với ông. Ông cho chúng tôi một cuốn soldeb, cuốn sách cầu nguyện rất đẹp, xem như món quà cuối và chỉ dẫn thêm để tâm chúng tôi luôn luôn gần ông, mỗi lúc nhắc đến ông.

Sáng ngày ông đi, chúng tôi tiễn bằng cách đi theo vài dặm để tỏ lòng biết ơn và thành kính. Thế nhưng ông cương quyết từ chối hành động này và nhất định chỉ đi một mình. Chúng tôi nghe lời ông, cúi thấp mình trước ông và nhận phước lành lần cuối. Tất cả chúng tôi - kể cả Scherab - đều đầy nước mắt khi bóng ông từ từ khuất trên con đường hẹp: một khách hành hương cô đơn, nghèo hơn lúc đến vì con ngựa đã chết cách đó vài tuần. Khi gặm cỏ trên sườn núi gần nhà, con ngựa chột này đã lăn xuống vực sâu. Hành lý nghèo nàn của vị đạo sư, người dã cho làng rất nhiều bằng sự hiện diện của mình và lòng phụng sự quên mình, bây giờ được vài người trong làng tự nguyện mang giúp đến chặng tới.

Khi dáng người cô đơn đã khuất, tôi về lại nhà và tụng đọc cuốn sách để bớt đau buồn. Và kỳ lạ thay, không biết tại sao, tiếng nói trầm của vị đạo sư thoát ra từ ngực tôi! Li và Scherab nghe thế ngạc nhiên chạy lại và tôi nghe họ gọi: “Thầy về lại rồi à”. Thế nhưng họ chỉ thấy mình tôi và tôi chỉ biết nói: “Chỉ tiếng nói thôi”. Kể từ đó tiếng nói của ông trở lại khi tôi nghĩ đến ông, vị lạt mà Phiyang yêu kính.

Sau nhiều chậm trễ, cuối cùng đoàn người chúng tôi đã xong và sẵn sàng lên đường. Chúng tôi yêu cầu Scherab đi theo, nhưng anh ngại xuống đồng bằng. Ngay trong mùa đông mà khi làm việc (ví dụ chẻ củi) anh luôn luôn ở trần. Anh cho Poo là ấm và độ cao 3000 m là thấp nhất với anh, không dám xuống sâu hơn.

Anh xem chúng tôi như cha mẹ va sẵn sàng phục vụ bất cứ cách nào; nhưng anh sẽ chết nếu xuống vùng thấp hay đi đồng bằng Ấn Độ, như nhiều người cùng xứ, đi rồi không bao giờ về.

Ngày chúng tôi ra di, anh khắc trên một bản đá thần chú của Quán Thế Âm “OM MANI PADME HUM”. Chúng tôi cùng đi với anh đến bức tường mani, nơi anh đặt miếng đá và cầu nguyện mong trong kiếp sau được tái sinh cùng với chúng tôi để tiếp tục phục vụ. Sau đó anh quay nhanh người, giấu nước mắt và đi không ngoảnh lại. Trước đó anh đã nói là sẽ đi rất nhanh, không quay lại vì nếu không tim anh sẽ vỡ.

Người cuối cùng từ giã chúng tôi là bạn thân và đồng môn, Namgyal. Tôi ôm ông và chúng tôi cám ơn những gì ông dành cho.

Rồi chúng tôi rời thung lũng “thiên đường” và trở lại với thế gian, không hề biết rằng giờ định mệnh của Tây Tạng đã điểm và sẽ không bao giờ gặp lại… tất cả chỉ còn trong mơ. Thế nhưng chúng tôi biết rằng, thầy của chúng tôi, cả báu vật của kỷ niệm mà đất nước này đã tặng cho, sẽ lưu lại với chúng tôi đến cuối đời mình. nếu chỉ trao truyền được một phần báu vật đó và giáo lý của các vị đạo sư cho thế gian thì chắc chắn chúng tôi có được niềm vui là đã trang trải lại đôi chút lòng biết ơn mà chúng tôi nợ Tây Tạng và các vị thầy tâm linh.

Đó chính là lý do mà tôi viết cuốn sách này; và chúng tôi quyết sẽ dùng phần còn lại của đời mình để hoàn thành tác phẩm mà số phận đã trao cho chúng tôi tại Tsaparang: trao lại thế giới gia tài bất tử của Tây Tạng bằng hình ảnh và ngôn từ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 4593)
Trời đã sang đông. Tôi thường nghĩ vậy khi những cơn gió bấc vừa thổi qua, và nhìn lốc lịch trong năm chỉ còn lại vài chục tờ mỏng manh. Ơû cái thành phố phương nam nhộn nhịp này mà nói đến mùa đông, nghe ra chẳng mấy phù hợp. Về mặt địa hình địa lý quả là như thế. Nhưng với tâm lý chung mà hơn hết là trong dòng suy tưởng của tôi, thì mùa đông vẫn hiện hữu theo chu kỳ ở bất cứ nơi nào có sự sống. Còn nơi vùng đất vốn nổi tiếng hai mùa mưa nắng này cho đến cận ngày giáp tết, khí trời vẫn nóng bức khô khan.
10/04/2013(Xem: 4632)
Tượng Phật bằng đá không biết từ đâu lại được đặt trên chỉa ba của thân cây xoài bị cháy xém. Những ngày chiến sự tràn lan, người ta lo bồng bế nhau chạy ...
10/04/2013(Xem: 4274)
Đứng trên ban công- nơi đỉnh tháp cao nhất- có thể phóng tầm mắt nhìn khắp các dãy núi nhấp nhô mờ ảo trong đám sương mù. Nhiều buổi sáng rồi, thầy...
10/04/2013(Xem: 4859)
Thầy Minh Ký là một người lập dị khác đời. Mọi người đều nói về thầy như vậy, dù chẳng ai biết nhiều về thầy. Hai năm trước khi Hoà Thượng Viện Chủ ...
10/04/2013(Xem: 4520)
Không khí ướt đẫm, mây trắng là là giăng ngang đỉnh núi trông tợ như những tảng thiên thạch lớn thoạt ẩn thoạt hiện ra trong một buổi chiều đông giá buốt. Nhưng lúc này đang độ vào thu. Màu trời xen lẫn với màu xanh bạc của cánh rừng làm ánh lên chút sắc buồn thâm u diễm lệ. Cảnh sắc này ắt hẳn cũng từng ru hồn bao khách trần tìm đến để mong khám phá và chinh phục một cõi thiên nhiên hùng vĩ giữa đất trời.
10/04/2013(Xem: 5554)
Sài gòn không có mùa thu để nhuộn thêm sắc vàng cho những chiếc lá còn lay lắt trên cành. Sài Gòn cũng đâu có bầu trời thu trong và mát để cho thi nhân thả hồn mơ mộng mà tức cảnh sanh tình. Ở đây chỉ có cái nắng mưa bất chợt như lòng người vui buồn bất chợt, đến đi bất chợt. Tuy vậy, nơi mảnh đất có chiều dài lịch sử hơn ba trăm năm, đã từng sản sinh ra nhiều cái độc đáo…vừa chung mà lại vừa riêng. Đây cũng là nơi sẵn sàng quy tụ và phát huy mọi điều hay đẹp, kể cả những cái dung dị nhất, bình thường nhất. Từ đó đã tạo nên một dáng dấp Sài Gòn_ không giống ai mà cũng chẳng khác ai.
10/04/2013(Xem: 13879)
Cạnh con đường mòn, ven sườn núi tại Ngọc Nam, có một ngôi chùa nhỏ hoang vắng, nằm im lìm giữa một nơi hẻo lánh và quạnh quẽ. Mùa xuân năm ấy, giặc dã và trộm cướp nổi lên, dân chúng miền phụ cận đã chạy tản mác đi nơi khác, vị trụ trì trong chùa cũng bỏ trốn, chỉ để một mình ông già “ tứ cố vô thân” ở lại đèn hương sớm tối.
10/04/2013(Xem: 3419)
Chiều dần buông, khách vãn chùa lần lượt ra về, chùa Bảo Quang trở lại ninh tịnh, yên ắng. Pháp sư Trí Thông bảo đám đệ tử hồi phòng ngơi nghỉ, còn tự mình quét dọn nhà chùa, phủi sạch bụi bặm trần ai, xua tan mọi huyên náo nóng nực của cả một ngày.
10/04/2013(Xem: 6347)
Đức Phật, nàng Savitri và tôi là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Hồ Anh Thái, do Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản. Tác phẩm được Công ty Văn hóa Phương Nam ấn hành với số lượng lớn, theo sự chuyển nhượng bản quyền với tác giả.
10/04/2013(Xem: 3844)
Phàm, ai lên đường cũng mang theo hành trang, nhiều hay ít, nặng hay nhẹ là do quan niệm về nhu cầu và mục đích chuyến đi. Khi gã đến bái biệt Thầy, lòng chợt rưng rưng khi chạm vào ánh mắt đầy xót thương. Chẳng lẽ chưa phải là lúc gã lên đường hay sao? Chẳng lẽ Thầy chưa thấy hết những quằn quại thôi thúc trong gã bấy lâu ư?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]