Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người thợ rèn làm đồng cốt

28/05/201319:31(Xem: 10128)
Người thợ rèn làm đồng cốt
Con Đường Mây Trắng


Người Thợ Rèn Làm Đồng Cốt

Nguyễn Tường Bách
Nguồn: Anagarika Govinda. Nguyễn Tường Bách dịch


Sau buổi lễ cúng lửa, chúng tôi tìm hỏi về người bị thần linh nhập và người ta cho hay đó là một người thợ rèn, người được thần lựa làm đồng cốt sau khi người trước (cũng là thợ rèn) chết đi. “Lựa như thế nào?”, chúng tôi hỏi, “người đó phải rất sùng tín hay có khả năng tâm linh gì đặc biệt hay có xu hướng làm chuyện đó”. “Không, ông là một người bình thường. Một thời gian sau khi người kia chết, tự nhiên có ngày ông bị ám và từ đó ông trở thành người cho thần linh nói chuyện”.

* * *

Rõ ràng trong làng luôn luôn có một người để thần linh sử dụng và người đó phải nhận trách nhiệm này. Phần lớn những người này thuộc nghề thợ rèn. Phải chăng những ai hay dính đến lửa và kim loại là đặc biệt phù hợp để tiếp nhận ảnh hưởng của các năng lực tâm linh, hay đây chỉ là truyền thống thời tiền sử để lại, thời mà đồ sắt đồ đồng được hình thành từ đất đá để đưa con người qua một kỷ nguyên mới? Thời đó kim loại được xem là có ma lực và tính chất huyền bí hay những ai “giải thoát” kim loại ra khỏi tù ngục của đất đai, biến nó từ thể rắn thành thể lỏng và thay đổi hình dạng nó, phải là đạo sư của ngành huyền học. Trong chuyện này Heinrich Zimmer nói về “thợ rèn huyền bí’, người đã giải thoát thế giới ra khỏi thời kỳ đồ đá: “Người anh hùng rút cây kiếm ra khỏi đá, không nhất thiết phải là một chiến sĩ lớn mà là nhà huyền học đầy uy lực, chúa tể của mọi sự tâm linh và vật chất(54)

Truyền thống thời tiền sử này hình như vẫn tồn tại ở nhiều nơi trên thế giới, châu Phi cũng như trong các bộ tộc Ấn Độ giáo vùng nam dãy Himalaya, nếu ta chỉ muốn nhắc tới hai thí dụ. Truyền thống này không liên hệ gì đến tôn giáo, chỉ tuân thủ quy luật tâm lý vốn xưa cũ hơn mọi tôn giáo mà trong đó mọi sức mạnh tiềm ẩn của thiên nhiên cũng như của tâm lý con giác ngộ phải được đánh thức.

Tôi tìm thấy hiện tượng lạ này nơi người Aissaouas, một bộ phái Hồi giáo huyền bí tại Bắc Phi, mà thành viên của họ (phần lớn làm nghề đồ sắt đồ đồng) mỗi ngày thứ tự tụ nhau trong một đền thờ đặc biệt dành riêng cho phép tu xuất thần. Lúc còn trẻ, tôi sống một thời gian với họ, mặc áo quần truyền thống của người Ả rập và vì thế có dịp tham dự các phép tu của họ. Họ không chống đối những người có tín ngưỡng khác, miễn là người ta cũng tôn trọng tôn giáo và tục lệ họ.

Mặc dù dạng xuất thần do tự họ tạo nên nhờ những phép hô triệu, với tiếng trống và xập xỏa cũng như cách uốn éo thân người chầm chậm kèm theo, tác dụng của nó cũng rất giống với phép cúng lửa mô tả ở trên với dạng xuát thần của người thợ rèn: khi tình trạng xuất thần đến thì hầu như có một sức mạnh khác chen vào và thân người làm đồng cốt không có gì làm tổn thương được nữa. Ta gọi sức mạnh này là gì, điều đó không quan trọng - dù gọi là Allah hay khả năng đặc biệt của tâm thức bao trùm vũ trụ, nơi đó cốt tủy mọi sinh vật đều tham gia và chỗ mà con người khi bỏ được cái ngã nhỏ bé sẽ hòa nhập vào - mà điều hệ trọng duy nhất là tâm thức có sức mạnh lên vật chất, ngay cả trong dạng thô thiển, dạng mà sức mạnh này biểu lộ ra trên bình diện hoang sơ của con người. Đối với người Aissaouas thì những ai thường lặp lại tên thượng đế (Allah) không nghĩ ngợi đến điều gì khác, mà nhờ đó có sự hiện diện của Ngài, người đó sẽ không bao giờ bị bách hại. Điều đó làm niềm tin họ thêm sâu sắc và là sự xác nhận chung quyết cho sự giải thoát của họ.

Buổi lễ bắt đầu với lời cầu khẩn Allah hòa theo nhịp trống. Trong lúc đó người tham dự chia làm hai hàng đứng đối diện nhau, lắc lư qua lại, những người trong một hàng choàng tay qua nhau nên cả hàng được xem như có một thân duy nhất. Dần dần có người tách ra khỏi hàng, cởi bỏ áo ngoài và ở trần; và chủ lễ đưa cho ông một trong những món vũ khí treo sẵn trên tường. Phần lớn loại vũ khí này là những que sắt dài ngắn khác nhau, cán là một hình bán cầu bằng gỗ.

Mục đích của cán gỗ sẽ rõ khi ta thấy chủ lễ lấy búa gỗ đập lên cán đó để đóng những que sắt vào trong người của những đồng cốt, lần lượt từ người này đến người khác. Thật là hãi hùng khi thấy cảnh que sắt đóng dần dần vào da thịt những người này, nhưng xem ra họ không thấy đau và lạ nhất là không chảy một giọt máu nào cả. Tôi đã có dịp đứng xem thật gần một người, lúc que sắt xiên qua má ông và lọt qua má bên kia mà không đổ một giọt máu. Về sau tôi nghe người ta nói, máu chỉ chảy lúc đồng cốt không đạt được mức bất khả xâm phạm và điều này cho thấy lòng tin không sâu hay anh ta không tập trung đầy đủ lên thượng đế.

Có người còn để cho nhiều cây sắt đâm ngang và chúng nằm trên vai, ngực, lưng trong lúc người bị đâm tiếp tục nhảy múa xuất thần cho đến khi họ kiệt sức ngã gục. Họ gục xuống chỗ nào thì nằm yên chỗ đó, chủ lễ ném một chiếc khăn trắng trên người họ. Theo tinh thần buổi lễ, họ đã chết và sau đó sẽ được chủ lễ gọi hồn sống lại, bằng một thần chú thiêng liêng thì thầm vào tai.

Có nhiều dạng khác nhau của phép tưởng như tự hành xác đó, nó nói lên sức mạnh của lòng tin và lòng xả thân tuyệt đối vì thượng đế; vì ý niệm then chốt ở đây không phải là chịu cái đau mà là lòng tin mạnh hơn cái đau đớn của thân thể. Tôi nhớ lại cảnh một người đàn ông cho toàn người ngã lên lưỡi kiếm, tưởng chừng như muốn mổ bụng, mà da ông không hề hấn gì cả.

Thế nhưng đáng sợ hơn những chuyện này là biến người thành thú như heo, chó, trừu. Tôi không muốn nói thân họ thành thú nhưng ý thức, cử động, toàn thể con người đã như con thú. Họ chạy bốn chân, và những ai biến thành trừu thì ăn lá cây gai ngon lành, không bị thương tích. Kẻ khác ăn miểng chai, nuốt bò cạp sống… khiến người xem lợm giọng.

Cuối cùng toàn thể ngôi đền trở thành ma quái với những con người nhảy múa, kẻ ở trần bị xiên sắt đâm ngang, những con vật bò quanh và khắp nơi là những “xác chết”. Một trạng thái xuất thần điên loạn hầu như tóm lấy người xem và tăng cường tới mức mà mình muốn giữ bình tĩnh cũng nguy - vì mỗi ai không tham gia vào sự xuất thần này được xem là một vật thể lạ, một chướng ngại, là người phủ nhận và chống lại tình trạng tâm thức xuất hồn đang ngự trị và đáng để cho đao kiếm của một kẻ cuồng tín đâm thủng. Chỉ vị chủ lễ là xem ra không bị tình trạng xuất thần xâm chiếm.

Cuối cùng khi tất cả, kể cả những kể giống như thú, kiệt sức gục trên sàn và được che bởi khăn liệm thì ngôi đền như một bãi chiến trường đầy xác người chết. Vị chủ lễ đi từ thân này qua thân khác, nói nhỏ vào tai họ vài câu thần chú và họ từ từ ngồi dậy, người này sau người kia, hầu như không có gì xảy ra. Và sau khi vị chủ lễ rút xiên sắt ra thì một vết sẹo nhỏ cũng không có.

Về sau khi tôi hỏi, tại sao con người trong tình trạng xuất thần không vươn lên một mức độ ý thức cao thấp mà lại cam chịu làm thú, người ta giải thích đó là một hành động nhẫn nhục; vì ta tự hạ mình bao nhiêu thì sự chứng ngộ Allah càng to lớn vĩ đại bấy nhiêu.

Tôi hiểu suy nghĩ này tới một mức nhất định nhưng không thể chia sẻ quan điểm này với họ. Như mỗi đức hạnh, thì lòng nhẫn nhục và tin tưởng sẽ hết là đức hạnh khi làm tới mức thái quá.

Lạt ma Phiyang đã cho thấy hành động đầy cảm thông và rộng lượng trong tình hình khẩn cấp của buổi lễ cúng lửa, ông là một đại biểu xứng đáng của con đường trung đạo và có tri kiến sâu xa trong tự tính của tâm thức con người.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/09/2010(Xem: 3623)
Tha phương sinh sống xứ người, tuy thâm tâm lúc nào cũng hướng về quê hương mến yêu, thế nhưng phải chờ đợi đến hơn hai mươi năm trời, sau bao ngày khắc khoải suy tư Thanh mới đột ngột quyết định về nước nghỉ hè hai tháng. Chàng về Saigon viếng thăm họ hàng vài ngày, rồi lang thang du ngoạn khắp các vùng biển từ Sầm Sơn đến Vũng Tàu, sau cùng quay lại Nha Trang, chiều chiều thơ thẩn đi dài dài trên bãi, mắt lơ láo nhìn biển khơi xa xăm với nỗi buồn vời vợi.
02/09/2010(Xem: 3878)
“Khác hơn thường lệ, đôi bạn thân Hiển và Phước, đối ẩm trong lặng lẽ, chẳng ai chịu mở lời. Hiển nâng chung trà hớp từng ngụm, rồi dường như đang bâng khuâng thả hồn theo những chiếc lá phong đỏ thẩm từng chiếc, từng chiếc rụt rè buông rời cành theo làn gió chiều mơn man. Còn Phước thì cầm chung trà, đi tới lui đăm chiêu suy nghĩ, mấy lần định lên tiếng mà cố đè nén chưa chịu hở môi.
02/09/2010(Xem: 3774)
Nghĩa háo hức theo mẹ về Việt Nam thăm viếng quê hương. Sau mấy ngày vui nhộn làm sống lại những kỹ niệm ấu thơ tại Thủ Đức với bà con họ nội xa gần, chàng theo mẹ về quê ngoại, tạm trú tại nhà cậu Út ở thành phố Phan Rang, Ninh Thuận. Vì thuở nhỏ chàng không có cơ hội liên lạc với họ ngoại, nên dù được cậu tiếp đón rình rang, nhưng chàng muốn thân thiết với hai đứa em cô cậu thật khó.
01/09/2010(Xem: 5685)
Dù dòng thời gian đã xoá nhòa những hình ảnh quý gíá xa xưa, dù dấu chân của các Ngài đã rêu phong phủ kín. Nhưng những dấu chân ấy đã đi vào lịch sử nhân gian, dù tiếng nói các Ngài đã hòa vào không gian tĩnh lặng. Nhưng đâu đây vẫn còn vang vọng pháp âm của các Ngài, làm chấn động tâm tư huyết mạch của bao người con Phật. Trong quyển “Những Vị Phật ở Miền Tây Nam Việt Nam” này. Chúng tôi sưu tầm, nghiên cứu và ghi chép trung thực theo lời thuật của các vị Trưởng Lão uy tín; hay các vị trí thức trung hậu; hoặc trích trong các tài liệu giá tri được mọi người tin tưởng.
28/08/2010(Xem: 63100)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 4558)
Tết Mậu Thân 1968, một cái Tết mà Việt Cộng tràn về quá bất ngờ, tôi không thể tin rằng đó là sự thật. Mồng Một Tết vẫn ăn Tết sắm sửa bình thường. Nhà tôi ở lầu 2 trường Đồng Khánh vì tôi làm Giám Học tại trường này, bên hông là Tòa Hành Chánh và Lao xá Thừa Thiên - nơi giam giữ nhiều tù binh Việt Cộng. Cả ngày vẫn tấp nập bà con tới lui thắm viếng, chiều lại còn có con của các nhân viên trong trường đến thăm chuyện trò hàn huyên vui như ngày hội. Tối đến cả nhà còn bàn nhau nên đi ngủ sớm để ngày mai xuống phi trường đón gia đình người anh chồng về Huế ăn Tết.
28/08/2010(Xem: 59269)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
19/08/2010(Xem: 9123)
Tại Keelung, Đài Loan có một cửa hàng với cái tên là “Ngộ Duyên Hào”. Ông chủ Lâm vốn là một người rất tử tế, xung quanh khu vực ông sống có rất nhiều những cư dân đánh cá hay kiếm sống quanh đó.
04/08/2010(Xem: 4647)
Tác-giả Thiện Xuân Malkhanova là một con người thật đặc-biệt. Còn nhớ năm 2000 khi chị Trương Anh Thụy và tôi đi sang họp Đại-hội Văn-bút Thế-giới ở Mạc-tư-khoa, chúng tôi đã để ý đến chuyện đi đường, gặp con sâu róm ở dưới đất, chị đã ân cần lấy một cái lá nâng nó lên rồi đặt nó lên một cành cây gần đó. Một con người từ-bi đến với cả cỏ cây, đất đá! Chị bảo đó là điều chị đã học được từ đạo Phật.
04/08/2010(Xem: 4184)
Không biết từ lúc nào, mà ngôi tịnh thất vô danh thấp thoáng dưới tàn cây huỳnh đàn rậm lá trên đỉnh núi Ông cheo leo mây mù đong đưa bao phủ quanh năm, đã được dân quê dưới chân núi ưu ái gọi là am Mây Ngàn thay thế cho cái tên “chòi đạo Ân” mà họ hùa nhau ám chỉ túp lều lá của sư Từ Ân ngày trước. Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh... lặng lẽ lên tận đỉnh, khai phá được một khoảnh đất nhỏ làm rẫy. Sư bắt đầu trồng các loại rau đậu, khoai, bắp, cà dưa... để sớm gặt hái hoa lợi,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]