Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quán đỉnh lần cuối

28/05/201319:31(Xem: 10800)
Quán đỉnh lần cuối
Con Đường Mây Trắng


Quán Đỉnh Lần Cuối

Nguyễn Tường Bách
Nguồn: Anagarika Govinda. Nguyễn Tường Bách dịch


Sau buổi lễ tséwang, lạt ma Phiyang tiếp tục giảng giải hàng ngày cho chúng tôi và lần cuối cùng ông thực hiện hai buổi lễ điểm đạo Mật giáo, nó làm trọn vẹn các buổi điểm đạo trước của chúng tôi và mở ra nhiều khí cạnh khác của phép tu thiền định thuộc về trường phái cổ nhất của Phật giáo Tây Tạng là Nyingmapa. Nhờ vậy mà chúng tôi hiểu được các dạng xuất hiện hay các khía cạnh ẩn mật khác nhau của Liên Hoa Sinh.

Trong những cuộc điểm đạo này, tất cả các trung khu được động viên, một quá trình mà tôi có mô tả một phần trong tác phẩm Cơ sở đạo học Tây Tạng. Những dạng xuất hiện khác nhau của Liên Hoa Sinh phụ thuộc nơi mức độ của tâm, từ đó Ngài được nhìn thấy hay chứng thực. Tên Ngài “sinh từ đóa sen’ đã chứng tỏ cái sinh thành tâm lý xuất phát từ hoa sen, tức là từ các trung khu, trong phút giây giác ngộ hay thực chứng về Ngài. Sự chứng ngộ này phải được mỗi đệ tử thực hiện lại, cho tất cả những ai đã được quán đỉnh vì giáo pháp và con đường dẫn đến giải thoát của Ngài.

Thế nên lạt ma Phiyang không phải chỉ là người thầy Tây Tạng cuối cùng của chúng tôi mà ông còn cho cái dịp vô song là nắm được sự toàn thể và hòa điệu của truyền thống Phật giáo Tây Tạng bằng chính kinh nghiệm của mình - một truyền thống với đặc trưng của bốn dòng lớn Nyingmapa, Sakyapa, Kargyutpa và Gelugpa, mà mỗi dòng sống Phật giáo đó đóng góp kinh nghiệm quí báu của mình. Dù cho có vài tu viện lớn tranh nhau về ảnh hưởng chính trị (một dấu hiệu khó tránh của uy quyền), thì những giá trị có tính nguyên tắc của các dòng đó vẫn được thừa nhận. Các vị chủ trương đổi mới như A-đề-sa, Tsongkapa và các vị khác không hề phủ nhận các trường phái cũ mà chủ trương một sự tổng hợp các giáo phái và chỉ trích những sai trái của tu sĩ các dòng, những người đã đánh mất trình độ và lý tưởng của mình. Các vị đổi mới đó chủ trương thiết lập trình độ và lý tưởng của mình. Các vị đổi mới đó chủ trương thiết lập lại trình độ tu chứng và sự hòa mình toàn diện của mỗi người vào trong đời sống tâm linh.

Trước khi lạt ma Phiyang ra đi, ông tổ chức một buổi lễ cúng lửa, lễ sám hối thanh lọc bằng lửa, trong một chừng mực nhất định nó ngược lại hay cũng có thể nói bổ túc cho tsewang là lễ thanh lọc bằng “nước thánh”. Lễ này, được gọi là méwang, có hai điều đặc biệt: có sự tham dự bất ngờ của các địa thần và người tham dự đều nhúng mình trong lửa nhưng không bị phỏng.

Lễ được cử hành đơn giản nhưng chính xác và gây ấn tượng. Trong lúc tụng đọc thần chú, lạt ma Phiyang cầm trên tay trái một bình đựng lửa và tay phải ném bột nhang (làm từ vỏ cây mọc trong vùng) xuyên qua lửa đang cháy. Bột nhang được ném cháy bùng lên về phía mọi người đang tụ tập, đưa mọi người vào trong lửa, nhưng nó tắt ngay không gây thiệt hại gì.

Quan trọng là phần đầu của buổi lẽ và trong giai đoạn này thì các vị địa thần xuất hiện. Lễ này nhằm chống lại và diệt các lực lượng tối tăm bằng lửa cúng dường, lửa được đốt trên man-đa-la của năm vị Thiền Phật. Man-đa-la được trình bày trong một đồ hình sáu cạnh, do hai tam giác đều lồng vào nhau, được bao lại bằng một hình vuông mà bốn góc được bảo vệ bởi đao trừ tà hình lưỡi liềm với chốt kim cương. Gỗ được chất cẩn thận xung quanh man-đa-la. Tất cả đều nằm trên một tòa cao trong sân của điện Mani, đó cũng là tâm điểm của làng. Tòa của lạt ma nằm giữa điện và bàn thờ lửa, mọi người đứng thành vòng tròn quanh bàn thờ.

Trong phần đầu của buổi lễ, vị lạt ma vẫn ngồi yên trên tòa, ông đọc thần chú hô triệu thần linh và vung đao trừ tà khắp mọi hướng. Sau đó ông xuống tòa và đốt lửa, thỉnh thoảng rưới thêm dầu hay bơ vô lửa, nó cho một ngọn lửa trong không khói. Ông vừa đi quanh đống lửa vừa đọc thần chú hô triệu với một nhịp điệu nghiêm trang. Dù tuổi đã cao và áo choàng nặng nề ông vẫn di chuyển với một dáng vẻ uyển chuyển, mỗi bước đi, mỗi cử động đều hòa với nhịp điệu của thần chú. Giọng tụng rất trầm của ông không bao giờ bị tán loạn, cử chỉ không bao giờ ngắt quãng, tát cả đều nằm trong một nhịp điệu đều đặn. Thân ông như có một sức mạnh nâng đỡ, nằm dưới một tình trạng tập trung không gì lay chuyển được.

Giữa vũ điệu thiêng liêng đó, bỗng nhiên trong giới người tham dự xuất hiện sự chuyển động, đó là những người ngồi dưới chân các miếu thờ nằm bên cạnh quãng trường. Bỗng một người cao lớn đứng dậy, tay chân run rẩy, mắt mở trừng trừng và đi như kẻ mất hồn. Mọi người xung quanh có vẻ sợ sệt và chúng tôi cảm giác có điều gì bất thường không dự kiến trước xảy ra- có lẽ có những lực lượng nào vô hình đang tranh đấu với nhau. Phải chăng sức mạnh tối tăm cảm thấy mình bị thách thức và vùng dậy chống lại năng lực của ánh sáng? Cử chỉ của người đó ngày càng hung tợn và có ai thì thầm: “Ông bị thần ám rồi”. Rõ là ông đã bị ám và không ai dám cản khi ông tiến gần tối bàn thờ lửa, đứng trước mặt lạt ma một cách khiêu khích và giễu cợt, bắt chước làm theo cử động của vị lạt ma này. Nếu người này phá hỏng buổi lễ thì hậu quả xấu sẽ xảy ra. Hầu như hai sức mạnh đang đối đầu, đọ sức với nhau. Sự căng thẳng tăng lên tới mức chịu không nổi.

Thế nhưng vị lạt ma không hề bước sai nhịp, không ngớt tụng niệm, vẫn đi trong nhịp điệu của mình như không hề bị phá rối; và con người bị ám đó chỉ là một bóng ma không có thực chất. Bây giờ người này tăng thêm sức mạnh quấy phá và đưa cho lạt ma một ít vải vụn, giấy vụn mà ông giật từ miếu thờ, thứ mà nhiều người đem đến để cúng tế. Vị lạt ma tiếp nhận các thứ đó và cho từng miếng vào lửa.

Như con cọp sổ lồng, người bị ám quay quay về miếu và lấy hết sức mình táng đầu vào nền đá miếu, máu vọt ra. Thật là một ấn tượng hãi hùng và chúng tôi lo ngại đầu óc người đó phải vỡ nát. Các người đứng gần tìm cách ôm lại, không cho ông tự tử, còn các người khác chạy lui chạy tới, tìm rượu và vũ khí để xoa dịu vị thần linh, vị đã nhập vào ông. Vợ người đàn ông òa khóc. Tất cả mội chuyện hình như xảy ra ngoài sự kiềm tỏa của con người.

Lúc đó thì vũ điệu cúng tế đã dứt và vị lạt ma giải thích lý do có sự quấy phá. Người ta cho hay các vị địa thần tại đó chống lại buổi lễ vì từ xưa nay các vị đã ở quãng trường này rồi, trước cả khi Phật giáo du nhập. Vị lạt ma hiểu ngay vấn đề và đồng ý cho thần linh được nói qua miệng của người đàn ông nọ, người được xem là đồng cốt cho các vị, để họ nói ý kiến của mình.

Sau đó thì huy hiệu của các vị được mang tới, trong dạng những vũ khí khác nhau, người đàn ông được cho một ly rượu. Ông uống cạn ly, đâm thủng hai má bằng một que sắt và để hai thanh kiếm lên mặt đất, chĩa lên trời. Ông cho hai đầu kiếm đâm vào khóe trong của mắt mình và tựa toàn thân lên gươm. Chỉ một chút động đậy hay mất thăng bằng thì hai mắt của ông sẽ bị chọc thủng và kiếm sẽ xuyên có ông. Thật là một cảnh biểu diễn rùng rợn! Nếu chưa từng thấy cảnh tương tự tại Aissaouas ở Bắc Phi thì tôi chỉ có thể nói đây là trò ảo thuật.

Sau khi người đồng cốt đã thực hiện mọi sự thử thách để chứng minh niềm tin và lòng thiết tha của mình, xem ra thần linh đã vui lòng sẵn sàng nói chuyện. Người đó ngồi xuống, tay chân còn run rẩy nhưng sau đó bắt đầu bình tĩnh, và thần linh bắt đầu nói.

Họ nói rằng, mặc dù đây là trú xứ chính thức của họ, nhưng không được hỏi ý hay mời đến tham dự buổi lễ. Nếu hỏi xin thì họ đã vui lòng cho phép, nhưng vì không ai làm động tác lễ độ tối thiểu này nên họ giận giữ.

Lạt ma Phiyang, người bị chê trách, trả lời với sự tỉnh giác và bình tĩnh rằng ông không có chủ ý muốn loại bỏ ai ra ngoài buổi lễ, vì mọi chúng sinh các cõi đều được mời đón. Thế nhưng nếu ông biết chỗ này đã có các vị thần ở thì không những ông phải xin phép và được sự đồng ý các vị đó, mà còn mời các vị tham gia buổi lễ. Ông xin các vị đó thứ lỗi cho sơ sót này và xin các vị đồng ý cho hoàn thành buổi lễ để giúp lợi ích của những người sống trong vùng.

Các vị thần nhận lời xin lỗi, đồng ý cho tiếp tục buổi lễ và sau đó không còn trở ngại gì nữa.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 12303)
Ni sư Satomi Myodo (tục danh là Satomi Matsuno) sinh năm 1896, trong một gia đình nông dân nghèo tại Hokkaido. Không chấp nhận truyền thống cho rằng phụ nữ chỉ có thể là một vợ đảm, mẹ hiền; bà quyết tâm tìm thầy học đạo. Trải qua nhiều khó khăn, tham cứu nhiều pháp môn nhưng bà vẫn không tìm được điều bà muốn.
10/04/2013(Xem: 3976)
Long trút hơi thở cuối cùng vào lúc 4:15 chiều, vào thời điểm này cậu mợ của Long đang trên máy bay về Việt Nam để thăm mẹ và bà ngoại của Long. Sau bao nhiêu năm vật vã trong đau đớn vì căn bịnh AIDS, và mấy tháng sau này Long sống trong đau đớn cùng cực bởi cơn bịnh hoành hành thân xác, chỉ còn xương và da. Nhiều lần ý nghĩ tự tử đến với Long, có lần Long dùng sợi giây sắt cắm vào ổ điện để mong sao điện giựt cho cậu chết, nhưng thật là chưa hết nợ trần nên cậu bị điện giựt bắn rớt từ trên giường xuống đất,...
10/04/2013(Xem: 5184)
Trong cuộc đời, có những mối tình ngắn ngủi thoáng đến thoáng đi, hoặc kéo dài "trong một tháng trong một năm" như cách nói của nhà văn nữ F. Sagan. Cũng có những mối tình lâu dài " tưởng trong giây phút mà thành thiên thu" hay "đem xuống tuyền đài chưa tan". Nhưng tất cả không biết đáng kể hay không nếu đem đặt bên cạnh mối tình lạ lùng của vị cao tăng chùa Shiga.
10/04/2013(Xem: 12899)
Xin được viết đôi dòng cảm nghĩ của mình về tác phẩm Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn. Số là rất tình cờ, tôi và anh Đoàn cùng dạy lớp mùa Hè ở trường Pacific Lutheran University tại Olympia, Washington State, tháng 6 năm 2001. Hai chúng tôi được xếp chung hai phòng sát nhau trong cư xá giáo sư trường đại học PLU và cũng là hai người Việt duy nhất ở đây. Anh Đoàn dạy môn Psychotherapy (Tâm Lý Trị Liệu) và tôi dạy môn Physiotherapy (Thể Lý Trị Liệu) nên có dịp làm việc chung trong khóa học. Tôi ham thể thao, anh Đoàn ham viết lách....
10/04/2013(Xem: 3590)
Người ta có thể vương vấn mùa thu bằng những điều thật giản dị. Những ai lần đầu trở thành sinh viên sẽ có cảm giác hạnh phúc trong mùa thu trọn vẹn ý nghĩa. Những ai đã qua dốc cuộc đời, mùa thu lá rụng sẽ có dịp để nhìn lại, để chiêm nghiệm cuộc sống. Mùa thu níu giữ chân ta ở lại, níu ta sống chậm hơn và muốn ngoảnh lại phía sau xem mình đã đánh mất những gì, mình còn lại những gì… Có những phút lắng lòng như thế để bước tiếp, dù chặng đường phía trước còn cả một mùa đông.
10/04/2013(Xem: 3507)
Thỉnh thoảng con mới gọi về Việt Nam để hầu chuyện với Thầy, thế mà lần nào con cũng nhõng nhẽo than van với Thầy là mỗi khi nói chuyện với Thầy xong , thì cái hầu bao của con nó lủng đi thật nhiều. Nhưng hôm nay, cái cảm giác lủng hầu bao của con không còn nữa, mà thay thế vào đó là một nỗi đau buồn nào đó thật mơ hồ mà ngay chính con, con cũng không nhận rõ được, sau khi được Thầy cho biết cặn kẽ những khổ cực của người dân ở các tỉnh miền Trung đang phải gánh lấy, ...
10/04/2013(Xem: 3596)
Tôi hân hạnh được Thầy Pháp Siêu tức là Nguyễn Thanh Dương trình bày với tôi, Thầy đã phải trải qua nhiều năm sưu tập và dịch thuật một bộ TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO gồm có 62 bài Giảng Luận tóm rút các phần tinh hoa đặc sắc. Mỗi mẫu chuyện có nhiều ý nghĩa thâm thúy: xây dựng, thức tỉnh, và giác ngộ cho người đời, Thầy cũng khuyến khích tôi, nếu có phương tiện in ra để phổ biến cho mọi người được xem.
10/04/2013(Xem: 7014)
Pháp Phật rộng lớn thâm sâu, nhưng không ngoài lý Duyên Khởi và lý Nhân Quả. Duyên Khởi hay lý tánh của các pháp. Thật tướng của các pháp chính là không tướng.
10/04/2013(Xem: 4627)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời,...
10/04/2013(Xem: 6164)
Cách đây hơn ba mươi năm, cũng có vài tiểu thuyết gia viết về Lý Công Uẩn. Cốt truyện tuy ly kỳ, câu văn tuy hấp dẫn thực, nhưng các tác giả thường thường đưa vào nhiều chuyện hoang đường để mô tả một nhân vật lỗi lạc với những hành động vượt quá sức tưởng tượng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]